Niệm Phật Đường
Welcome
Login / Register

Tantric scriptures - Mật Giáo


  • BẬC THẦY VÀ NGUỒN CẢM HỨNG

    BẬC THẦY VÀ NGUỒN CẢM HỨNG

    NGUỒN CẢM HỨNG THIẾT YẾU ĐỂ TU TẬP

    Trước khi bước lên kim cương thừa, cỗ xe tối thượng, nên biết vì sao ta phải từ bỏ lối nhìn hạn hẹp phàm tình của ta về chính mình, và làm phát sinh tự tính giác ngộ của một con người đã hoàn toàn tiến hóa. Ta phải thấy chính vì nghĩ mình thấp thỏi mà ta tiếp tục bị giam giữ trong vòng bất mãn triền miên. Chu kỳ đau khổ bất toại ấy là do ta không biết đến bản chất thuần tịnh cốt yếu của mình. Khi đã có ba yếu tố tiên quyết - từ bỏ, bồ đề tâm, thấy đúng - và an trú tâm trong sáng nguyên ủy, là ta tạo được khoảng trống cho sự chuyển hóa tự thân.

    Tuy nhiên hiểu biết như thế chưa đủ, ta phải phát sinh sức mạnh và niềm tin để đi theo pháp môn mãnh liệt đưa đến toàn giác. Nói cách khác ta cần một nguồn cảm hứng. Giác ngộ không chỉ là một khả tính trên lý thuyết, mà là một điều có thể chứng đạt và đã được chứng bởi những con người như chúng ta. Trong truyền thống mật tông, nguồn cảm hứng này là bậc thầy, hướng đạo tâm linh của ta. Trọng tâm của mật tông là hợp nhất mình với nguồn cảm hứng ấy nhờ pháp đạo sư du già.

    Hiện tại chúng ta không thể nào giải quyết những vấn đề mà tâm chấp ngã của ta đã gây ra. Đức Phật Thích ca mâu ni đã dạy những phương pháp để giúp ta thoát khỏi ngục tù bản ngã và tự đồng hóa với những thực thể giác ngộ của quá khứ, hiện tại và tương lai. Những thực thể giác ngộ ấy đã kiện toàn một trạng thái trong đó không có sự tách rời, phân biệt giữa cao và thấp; chỉ có sự bình đẳng hoàn toàn của kinh nghiệm giác ngộ. Pháp hành trì đạo sư du già chuẩn bị cho ta đi vào kinh nghiệm hợp nhất với sự thành tựu viên mãn. Nhờ xem mình với thầy là một, ta trừ được tâm tự bỉ như "Chư phật quá cao xa, tôi không sao sánh được." Thay vì thế, ta tập đồng nhất bản tâm mình với tâm bậc thầy, được xem như một vị phật toàn giác.

    Nhờ hành trì pháp đạo sư du già mà trí tuệ hạn cuộc của ta đi đến viên mãn. Năng lượng đại từ bi đại trí tuệ và đại phương tiện của bậc thầy gieo hạt giống trong tâm ta để ta cũng thể hiện được những đức tính tốt lành vô hạn ấy. Chính chúng ta trở thành bậc thầy, và như vậy ta cũng có thể đem lại sự giúp đỡ vô lượng và bất tận cho tất cả chúng sinh. Nếu ta không phát sinh những đức tính của một bậc thầy chân chính trong ta, thì làm sao ta có thể đem lại lợi ích rốt ráo cho bất cứ người nào ? Ta lại còn không thể tự giúp mình cho thích đáng nữa.

    BẬC THẦY NỘI TÂM VÀ BẬC THẦY BÊN NGOÀI

    Những kinh điển mật tông thường nói rằng tất cả thực chứng đều phát sinh từ bậc thầy. Điều này đúng, nhưng ta phải hiểu rằng "thầy" có hai mức độ ý nghĩa khác nhau. Bậc thầy khách quan tương đối là người chỉ cho ta bằng nhiều cách, làm thế nào để khám phá sự toàn vẹn của chính mình. Nhưng trên phương diện sâu xa hơn, bậc thầy chính là trí tuệ, tính trong sáng căn để của tâm ta.

    Cùng một lời dạy, cùng một bậc thầy, mà phản ứng người nghe không ai giống ai. Có người không hiểu giáo lý ngay cả trên bình diện tri thức; có người hiểu được nhưng không thể đi sâu vào ý nghĩa. Nhưng cũng có người vượt ngoài danh từ khái niệm, hoàn toàn hòa nhập với bi và trí của bậc thầy. Những phản ứng ấy đều do mỗi người đạt một trình độ khác nhau về tiến hóa tri thức và tâm linh. Càng giao cảm với bậc thầy nội tâm, người học càng thâm hiểu giáo lý sâu sắc.

    Trên thực tế, vị thầy tương đối bên ngoài dù nỗ lực bao nhiêu cũng không bảo đảm cho ta đạt thực chứng. Nhưng bậc thầy bên trong, trí tuệ sáng suốt của chính ta, thì có thể hoàn thành tất cả mọi sự. Bởi thế, pháp hành trì đạo sư du già cốt yếu là một phương pháp để học cách lắng nghe tiếng nói của bậc thầy nội tâm ấy.

    Thông thường, mặc dù ta có tiếng nói nội tâm của trí tuệ, nhưng ta không lắng nghe nó nói. Ta lại còn không biết đến tiếng nói ấy, vì ta luôn luôn bận nghe tiếng lải nhải của những tâm lý nhị nguyên thô trọng trong ta. Ta đã quá quen thuộc với tiếng nói này tới nỗi khi trí tuệ trực giác phát sinh, ta thường chối bỏ nó. Nhờ thực hành đạo sư du già, ta có thể đoạn tuyệt quan hệ thô thiển với thế gian để tiếp xúc với trí tuệ bẩm sinh. Khi ấy, ta còn có thể tương quan mật thiết sâu xa với bậc thầy bên ngoài. Nhưng khi mất liên lạc với bậc thầy nội tâm, thì dù giáo lý bậc thầy bên ngoài có sâu sắc đến đâu, ta cũng không bao giờ hội nhập được.

    Nhưng nói thế không có nghĩa là vị thầy bên ngoài không quan trọng. Trái lại, vị ấy hết sức cần thiết. Mặc dù sự thực là giáo lý mật tông của đức Thích ca mâu ni đã hiện hữu trên 2500 năm, song đối với ta giáo lý ấy kể như không nếu ta không gặp được một bậc thầy mật tông đủ tư cách. Khi ấy thì giáo lý mật tông có thực đối với ta hay không? Dù chư tổ Naropa, Marpa và Tsongkapa có những lối giải thích phong phú đến đâu, ta có thể biến mật tông thành chân lý dành cho ta không, nếu ta chưa được bậc thầy nào khai thị? Dĩ nhiên là không. Về kinh giáo cũng vậy, sự kiện đức Phật giảng giáo lý Tứ đế rất lâu xa về trước cũng không làm cho giáo lý ấy là thực hữu đối với ta. Giáo lý ấy chỉ trở thành hiện thực đối với ta khi ta đã thực chứng giáo lý, nhờ gặp được một vị thầy có thể khai thị một cách sáng sủa cho ta hiểu. Nếu không có tấm gương sống động và cảm hứng từ bậc thầy bên ngoài, thì trí tuệ nội tâm ta vẫn yếu ớt, không phát triển được.

    BẬC ĐẠO SƯ VÀ GƯƠNG MẪU

    Giáo lý giác ngộ đến với chúng ta, gây được ấn tượng trên tâm thức ta, là nhờ một hệ truyền thừa không gián đoạn giữa thầy và đệ tử tiếp nối. Bậc thầy, một thành phần của hệ truyền thừa ấy, làm cho giáo lý Tứ diệu đế trở thành sinh động đối với ta nhờ nguồn cảm hứng hay sự gia trì của ngài. Nhờ biết rõ tính tình, khả năng ta, nên bậc thầy có thể làm cho chân lý trở nên sáng sủa đối với ta, làm tâm ta trở thành con đường của thực chứng. Ý nghĩa của cảm hứng hay sự gia trì chỉ có thế. Và pháp hành trì đạo sư du già hay thờ kính thầy, chỉ là để cho chúng ta mở lòng ra mà đón nhận nguồn cảm hứng này.

    Hơn nữa, ta cần một người dẫn đạo có kinh nghiệm để chỉ cho ta cách áp dụng những giáo lý vào thực hành. Ta sẽ không đi tới đâu nếu chỉ học từ trong sách, tự mò mẫm mà hi vọng tìm ra mọi sự. Có thể những thông tin vẫn đầy đủ trong sách, nhưng hầu hết các mật điển đều có tính mơ hồ, chỉ rõ ý nghĩa khi được giải thích. Chỉ một điều trang bị thông tin ấy như thế nào, cũng không dễ gì biết được. Ta cần một người chỉ dạy, cho ta một chứng minh thực tiễn. Người ấy là bậc thầy.

    Trong mật tông, một bậc thầy có kinh nghiệm rất cần thiết, vì pháp tu này nặng về kỹ thuật nội tâm. Chúng ta cần được chỉ dẫn mọi sự ăn khớp với nhau như thế nào trước khi ta thực sự thân chứng điều ấy. Nếu không có sự hướng dẫn thích đáng thì ta sẽ rối ren không khác gì một người thay vì được một chiếc xe hơi lại chỉ nhận được một đống bộ phận rời rạc và một quyển sách dẫn. Nếu không phải là một thợ máy chuyên môn, thì người ấy sẽ hoàn toàn mù tịt.

    Lý do ngày nay tôn giáo đã suy đồi tận gốc ở phương đông cũng như phương tây chính là vì hiếm có được những tấm gương sáng về tâm linh. Nếu chưa bao giờ gặp được những bậc thầy chứng ngộ thì người ta không cách nào biết đến những khả năng vô hạn của tâm thức mình. Đọc sách nói về hành vi và sự nghiệp những bậc thầy quá khứ chưa đủ gợi nguồn cảm hứng cho ta. Kỳ thực, lắm lúc những tiểu sử ấy càng làm ta cảm thấy mình cách xa trời vực. Ta nghĩ "Phật và Chúa đã sống mấy ngàn năm trước, sự trong sáng của các ngài thuộc về một thời đại khác. Một người như tôi sống vào thế kỷ 20 suy đồi này thực vô phương đạt đến bất cứ mức độ thanh tịnh nào giống như thế." Hoặc ta có thể hoàn toàn phủ nhận những chuyện kể về các bậc thầy quá khứ, xem như chuyện thần tiên chỉ thích hợp với trẻ nhỏ dễ tin. Cách duy nhất ta có thể dập tắt những cảm giác hoài nghi, vô năng và châm biếm ấy là, phải tiếp xúc với một người đã khơi dậy được tiềm năng cao thượng nhất nơi chính họ. Chỉ khi đó ta mới có được một tấm gương về sự thanh tịnh và tiến hóa tâm linh mà chúng ta có thể trông thấy tận mắt, để nghĩ lại chính mình.

    Bởi thế bậc thầy bên ngoài thật vô cùng quan trọng. Ta cần một điển hình về một người cũng là con người như chúng ta, nhưng đã phát triển vượt ngoài giới hạn những gì ta xem là có thể. Khi ta thấy một người đã vượt ngoài ngã chấp, một người không còn những bận tâm nhỏ nhen về cuộc đời này mặc dù vẫn sống trên đời, một người nói và làm bằng trí trực giác và thực sự hiến mình cho sự an lạc của tất cả, thì khi ấy ta có thể tin chắc rằng ta cũng có thể đạt đến những thực chứng ấy. Nếu không, khi ta chỉ toàn thấy những điển hình của tham lam thù hận, thì tầm nhìn của ta về ta là gì và có thể trở thành gì, sẽ bị hạn cuộc một cách thê thảm.

    Một tấm gương sáng là điều quan trọng, không riêng chỉ đối với người đang theo một con đường tu tập. Nhu yếu khẩn thiết nhất trong thế giới ngày nay là hòa bình và hòa điệu, tất cả chúng ta đều cảm thấy nhu cầu này, dù có tôn giáo hay không. Nhưng hòa bình không thể được mang lại chỉ nhờ danh từ, và đương nhiên không thể nhờ sức mạnh mà có hòa bình được. Ngược lại ta cần tấm gương của những người mà trọng tâm của đời sống họ là hòa bình, hòa hợp. Chỉ có tấm gương của những người sống một cuộc đời vừa hùng lực vừa trong sáng như vậy, mới có thể thuyết phục được cái thế gian đang vỡ mộng, và chứng minh cho họ thấy rằng hòa bình nội tâm và ngoại giới là điều có thể thực hiện ngay bây giờ và tại đây.

    TRUYỀN ĐẠT BẰNG SỰ GIA TRÌ

    Muốn tiến trên con đường mật tông để đạt đến sự viên mãn cho tự thân, cần có sự gặp gỡ giữa bậc thầy bên trong và bậc thầy bên ngoài. Khả năng giác ngộ của chúng ta phải được thêm sức, phải được cảm hứng nhờ tiếp xúc với một người nào đã phát triển tiềm năng ấy đến chỗ viên mãn. Mỗi pháp tu Mật tông tập trung vào một vị trời thiền biểu trưng cho một khía cạnh đặc biệt của cái tâm toàn giác. Và cũng như cái tâm chấp ngã phàm tình đã tạo ra hoàn cảnh giới hạn của riêng nó, tâm hoàn toàn giác ngộ của một vị thần sẽ tạo ra hoàn cảnh đã được chuyển hóa trong đó tâm ấy vận hành để lợi lạc cho người khác. Sự phối hợp giữa vị thần và hoàn cảnh đã được chuyển hóa ấy, gọi là một Mandala, và nếu muốn thể hiện một vị thần nào đó trong tâm mình, trước hết ta phải được giới thiệu vào Mandala của vị ấy nhờ một bậc thầy mật tông đủ tư cách. Chỉ khi ấy những tu tập về chuyển hóa bản thân mới có thể thành đạt.

    Mỗi vị thần mật tông có một hệ truyền thừa không gián đoạn gồm những hành giả thuộc hệ phái ấy. Một hệ phái chân thực đáng tin cậy thì phải bắt nguồn từ kinh nghiệm giác ngộ của vị thầy chân chính. Hơn nữa kinh nghiệm này cần phải được truyền thừa đến chúng ta qua một chuỗi không gián đoạn gồm những hành giả uyên thâm, mỗi người đều đã thực chứng nhờ viên mãn những pháp hành trì về vị thần liên hệ. Sức mạnh của mật tông - tantra có nghĩa đen là sự tương tục - nằm trong sự duy trì và truyền đạt kinh nghiệm giác ngộ qua một hệ phái hành giả liên tục không gián đoạn. Bởi thế điều cần thiết là phải thiết lập được liên lạc với hệ truyền thừa sinh động ấy nếu muốn tự chuyển hóa mình. Cách thức để làm cuộc tiếp xúc ấy là qua một lễ nhập môn (hay quán đảnh, hay gia trì.)

    Thụ pháp quán đảnh hay gia trì là cốt để đánh thức một loại năng lượng đặc biệt trong tâm ta. Nhờ thiết lập một tương quan mật thiết với bậc thầy, sự tiếp xúc ấy đánh động cái tiềm năng trong tâm ta để đi con đường mật tông đến chỗ viên mãn. Nhập môn là một hành vi thiền định mà thầy trò cùng san sẻ; chứ không phải chuyện một ông thầy cổ quái nào từ Tây tạng sang làm pháp thuật để ban cho bạn những quyền năng ghê gớm như hàng phục rắn và bò cạp ! Đừng nên hiểu nghĩa gia trì theo kiểu ấy. Chúng ta cũng không bận tâm đến những khía cạnh hình thức của cuộc lễ như cầu nguyện đọc tụng, rung chuông v.v...Điều cần hiểu là sự gia trì có thâm ý lớn lao.

    Câu chuyện kỳ diệu về hành giả tu chứng rất cao ở Ấn vào thế kỷ thứ 10 tên Tilopa và môn đệ Naropa của ông chứng minh được bản chất cốt yếu của sự gia trì trong mật tông. Đã nhiều năm, Naropa mong muốn thọ pháp gia trì từ bậc thầy Tilopa, và thường lặp lại lời thỉnh cầu. Vốn là một bậc thầy hành tung quái dị khó dò, Tilopa không bao giờ đáp ứng lời cầu xin ấy. Lúc thì ông giả vờ không nghe, lúc lại đánh trống lấp bằng cách nói những câu hoàn toàn vô nghĩa. Nhưng Naropa vẫn kiên trì.

    Một ngày kia sau 12 năm chung sống- trong thời gian đó Tilopa đã đặt môn đệ vào vô số tình huống thử thách đầy hiểm nguy- khi hai thầy trò đang đi bộ qua một sa mạc nóng cháy, Tilopa đột ngột tuyên bố: "Bây giờ đúng là lúc nên làm lễ nhập môn. Hãy đem cho ta một mandala!" Trong câu này thì Mandala có nghĩa là một phẩm vật hiến dâng tượng trưng cho toàn thể vũ trụ, và theo truyền thống, khi đệ tử dâng thầy một mandala để xin được nhập môn, mandala ấy phải gồm những vật quý giá và bày biện đẹp đẽ. Nhưng giữa sa mạc mênh mông chẳng có thứ gì ngoài đất cát, Naropa bèn tiểu tiện xuống đấy để có thể nắn một hình mandala thô sơ. Tilopa nhận món lễ vật quái dị ấy và ban phép "gia trì" bằng cách ném nó vào đầu đệ tử cho vỡ nát! Tâm của Naropa lúc ấy bị cuốn hút bởi lối gia trì bất thường kia một cách sâu xa đến độ ông ta nhập ngay vào một định chứng đầy phúc lạc. Rất lâu, khi cuối cùng ông xuất khỏi định chứng sâu xa ấy, thầy ông đã biến mất. Nhưng Naropa đã nhận được cái mà ông đã bao năm chờ đợi, đó là sự trao truyền tuệ giác thực thụ.

    Câu chuyện này kể ra cốt để nhấn mạnh rằng một phép gia trì không phải đơn giản chỉ là nghi lễ. Hoàn toàn không phải thế. Đấy là một loại truyền thông đặt biệt giữa thầy và môn đệ; và bởi thế nó tùy thuộc rất nhiều vào sự mở lòng ra của môn đệ và trình độ tu tập của ông ta cũng như vào sự thực chứng của bậc thầy. Mối truyền thông mật thiết ấy khởi động bản chất sâu xa của chúng ta đến độ ta được thêm năng lực để thực hành không gián đoạn và viên mãn tất cả những thực chứng trên đường tu tập.

    Nhiều người phương đông cũng như phương tây có những ý tưởng nhầm lẫn về lễ nhập môn hay gia trì của mật tông. Họ tưởng chỉ có việc tham gia cuộc lễ, bậc thầy sẽ làm tất cả mọi sự. "Ngài sẽ cho một điều gì đặc biệt, và tôi sẽ nhận được, miễn tôi có mặt." Nhưng thế là quá thụ động. Sự gia trì đích thực chỉ xảy đến khi có sự tham dự tích cực của cả thầy lẫn đệ tử. Đấy là khi hai tâm hồn cùng san sẻ một kinh nghiệm. Chỉ khi điều này xảy đến ta mới có thể nói pháp gia trì đã thực sự diễn ra.

     

    THỌ PHÁP GIA TRÌ

    Thọ pháp cần nhiều điều hơn là chỉ có tham dự bằng thân xác, như đi đến một nơi nào đó vào một lúc nào đó để nhận một cái gì đó mà một người nào đó sẽ trao vào tay bạn. Thọ pháp gia trì còn là sự tham gia trực tiếp bằng cả tâm hồn. Chúng ta cần có khả năng buông xả để cho kinh nghiệm tự xảy đến, hơn là có thái độ căng thẳng, bị ám ảnh. Bởi vì sự quán đảnh - bao gồm tất cả những pháp thiền quán trong đó - là một phương pháp để dẫn ta đi vào một kinh nghiệm về sự toàn vẹn, và sự toàn vẹn này là một liều thuốc chữa trị cái tâm nhị nguyên của chúng ta đầy thói cục bộ bất mãn và cuồng tín. Qua kinh nghiệm nội tâm về pháp gia trì chân chính, mọi chướng ngại cho việc thực chứng cái Toàn vẹn đều bị loại trừ, không phải nhờ ta nghe được hay học thêm được điều gì, mà nhờ thực chứng bằng bản thân.

    Thế thì tại sao chúng ta gọi đây là một phép nhập môn hay quán đảnh? Bởi vì đấy là khởi đầu của kinh nghiệm thiền, khởi sự tác động lên việc tập trung thiền quán của ta, và thâm nhập vào thực tại của mọi sự. Qua năng lực của một pháp gia trì như thế, ta xử dụng được trí tuệ, phương tiện và từ bi mà ta đã có. Đây là sự bừng dậy của những gì có sẵn.

    Điều quan trọng là nhận ra mình có sẵn những đức tính trí tuệ, phương tiện thiện xảo và từ bi. Thực sai lầm khi nghĩ có người nào thiếu những đức tính ấy, nghĩ nhờ pháp gia trì họ mới nhận được những đức tính họ không sẵn có trong tận cùng bản thể. Giáo lý Phật nói chung và Mật tông nói riêng, thường nhấn mạnh rằng có một tài nguyên vô hạn về tuệ giác sâu xa và từ bi rộng lớn đã nằm sẵn trong mỗi người chúng ta. Điều cần thiết là bây giờ chúng ta phải động đến tài nguyên ấy, "cho chạy" cái năng lượng giác ngộ tiềm tàng ấy.

    Để sự gia trì có kết quả, cả thầy lẫn trò đều phải tham dự trong việc tạo nên không khí thích hợp. Vị thầy có bổn phận hướng dẫn lễ gia trì sao cho nó thực thụ đánh động tâm đệ tử, và phải đủ thiện xảo và mềm dẻo để uốn nắn sự gia trì cho hợp khả năng đệ tử. Những đệ tử thì phải biết làm phát sinh một thái độ khoáng đạt, và để tâm mình trong trạng thái sẵn sàng đón nhận. Nếu quá bám vào sự vật giác quan, hoặc vướng sâu ngã ái, hoặc chấp chặt tướng ngoài của sự vật, xem chúng là thực hữu, thì sẽ không có chỗ cho thực chứng len vào tâm thức. Nhưng khi đã luyện tập đầy đủ Bồ đề tâm và chính kiến về tính không, thì đệ tử sẽ dễ dàng cởi bỏ những thành kiến để mở lòng đón nhận sự trao truyền tuệ giác.

    Khi cả thầy lẫn trò đều đủ tư cách thích hợp, thì sự gia trì thấm nhuần tuệ lạc lớn lao. Thay vì tạo điều kiện để đi vào mật tông, sự gia trì trong trường hợp ấy đã giúp đệ tử ngộ đạo, thực chứng kinh nghiệm hỉ lạc siêu việt. Quả thế trong quá khứ, đã có nhiều môn đệ đạt giác ngộ ngay trong lúc thọ phép nhập môn.

    Và điều quan trọng cần nhớ là, một hành giả nghiêm túc không chỉ thọ quán đảnh một lần duy nhất. Người ta có thông lệ thọ pháp quán đảnh để đi vào một pháp hành trì mật tông đặc biệt, mỗi lần như thế họ lại có thể nhận được những mức độ kinh nghiệm thực chứng càng ngày càng sâu. Bởi thế ta không nên thất vọng nếu lúc đầu thiền quán của ta chỉ dừng lại ở mức độ tưởng tượng thay vì kinh nghiệm thực thụ. Điều này cũng đã khá tốt, đừng tưởng nó không ăn thua gì. Chỉ tưởng tượng mà thôi cũng gieo được những hạt giống vào trong ruộng thức bao la của ta, và cuối cùng những hạt giống ấy sẽ phát triển thành kinh nghiệm thực thụ. Đây là một tiến trình rất tự nhiên. Bởi thế bạn phải luôn luôn cỡi mở buông thư, và hài lòng với bất cứ gì xảy đến.

     

    PHÁP HÀNH ĐẠO SƯ DU GIÀ

    Khi đã thọ pháp nhập môn để hành trì một pháp quán đặc biệt về vị thần nào đó, ta có thể khởi tu quán hàng ngày về "sadhana" của vị thần ấy. Một trong những pháp thiền đầu tiên của "sadhana" (những chỉ dẫn từng bước để thực hành pháp thiền quán liên hệ đến một vị thần mật tông) là Đạo sư Du già, vắn tắt như sau. Quán tưởng trước mặt hoặc trên đỉnh đầu mình, vị thần thiền chính yếu của mật điển mà ta đang thực hành, hình ảnh vị ấy được vây quanh bởi những bậc thầy trong hệ phái. Những bậc thầy hệ phái này là những người đã truyền thừa giáo lý và thực chứng pháp quán ta hành trì, gồm từ sơ tổ cho đến vị thầy hiện tại, vị thầy mà ta đã thọ pháp nhập môn.

    Sau đó ta khẩn cầu những thành phần trong hội chúng ấy ban cho ta niềm cảm hứng và ân phước. Đáp ứng lời thỉnh cầu này, những vị ấy tan hòa thành ánh sáng nhập vào trong ta xuyên qua đỉnh đầu đi xuống huyệt đạo trung ương (xem chương 10) và tan vào trong tim ta. Khi điều này xảy đến thì mọi danh tướng nhị nguyên phàm tình đều tan vào khoảng không trong sáng của tính không. Khi ấy ta thiền quán cái cảm giác rằng bậc thầy, vị thần, và bản tâm ta, cả ba đã trở thành một thực thể bất khả phân.

    Tinh túy bậc thầy là trí tuệ, trạng thái tâm hoàn toàn trong sáng trong đó lạc và tuệ -sự thực chứng Tính Không- chỉ là một. Bởi thế khi quán tưởng vị thầy tan vào trong tim mình, ta phải có cảm giác một dấu ấn bất khả hoại của trí tuệ ấy đang ấn sâu vào đáy tim ta. Từ giây phút ấy về sau, ta phải thường xuyên nhớ lại kinh nghiệm nội tâm này về đại lạc và trí bất nhị, dù có gặp hoàn cảnh nào đi nữa. Nếu chính niệm về kinh nghiệm nội tâm này suy giảm, ta sẽ dễ dàng rơi vào ảnh hưởng của kinh nghiệm giác quan thô động, và hỉ lạc nội tâm về trí bất nhị cuối cùng sẽ hoàn toàn tan biến.

    Khi quán tưởng bậc thầy mình như vị thần thiền, ta nên đặc biệt nghĩ đến lòng tử tế và sự quan tâm của thầy đối với ta. Nói đơn giản, mặc dù vị thầy như trời thần ấy không phải là cha, mẹ, hay người thân của tôi, vị ấy đã lo cho tôi không khác gì những người thân ấy. Dường như thầy chỉ hiện hữu vì tôi, cho tôi có thể phát triển một thân tâm lành mạnh thù thắng. Đấy là cách ta nên nghĩ về vị thầy như trời thần khi thiền quán.

    Nhờ quán tưởng theo cách trên, nghĩ đến sự tử tế của thầy đối với ta, mà một giây liên hệ mãnh liệt được thiết lập. Thay vì quán một hình ảnh mơ hồ không có tính người, ta quán bản chất vị thần không khác gì bậc thầy từ bi vô lượng của ta. Bằng cách ấy một cảm giác thân thiết vô cùng sẽ phát sinh. Do cảm giác mật thiết này, và cũng vì vị thần được quán thành một thực thể ánh sáng tuyệt đẹp, mà cảm hứng có thể đến với bạn rất nhanh. Sự quán tưởng của bạn như nam châm cuốn hút cảm hứng và phúc lạc, nhờ vậy bạn có thể khai triển những thực chứng. Chung quy đây là toàn thể mục đích của pháp hành trì đạo sư du già. Mục đích của sự nhìn thấy bậc thầy dưới hình dạng cao siêu thù thắng hoàn toàn không cốt để làm lợi cho bậc thầy- một bậc thầy chân chính không cần gì đến sự tôn vinh ấy- mà chỉ cốt để thúc nhanh sự tiến bộ tâm linh của ta.

    LIÊN TỤC NHẬN RA TÍNH NHẤT THỂ

    Thấy bậc thầy, vị thần và bản tâm ta là một thực thể duy nhất, không phải là điều chỉ cần làm trong thời thiền quán. Ta phải thực hành đạo sư du già- tự đồng hóa với Phật tính cốt tủy của bậc thầy- trong mọi lúc của đời ta. Thay vì nghĩ đến cái tâm bất mãn khốn khổ của mình, ta nên nhận chân Nhất thể giữa bản tâm ta với bậc thầy bên trong. Khi tâm chấp ngã khởi lên, thì thay vì thêm nhiên liệu cho nó bằng cách lao mình vào tâm trạng mê muội, ta nên cố nhận ra tâm ấy có bản chất Thầy-Phật, đó là pháp thân (xem chương 10). Khi ấy năng lượng của tâm mê được xử dụng để chuyển thành trí tuệ. Đây là giáo lý nổi bật của mật tông.

    Nhưng muốn thành tựu sự chuyển hóa sâu xa này, ta phải liên tục thực hành đạo sư du già. Phải thân thiết với lối nhìn bậc thầy, vị thần và bản tâm mình cốt lõi chỉ là một. Tác phẩm Cúng dường đạo sư nói: "Ngài là bậc thầy, là thần nam, thần nữ, thần hộ pháp." Để giải thích điều này ta có thể mượn hình ảnh Kitô giáo, một truyền thống tâm linh dựa trên hiện hữu của một thượng đế duy nhất, một thực tại tuyệt đối. Mặc dù thượng đế thể hiện dưới ba phương diện Cha, con và thánh thần, tinh túy thượng đế chỉ là một, đó là nguyên lý Toàn thể. Tương tự, mật điển nói đến nhiều vị thần khác nhau, nam thần, nữ thần, thần hộ pháp..., nhưng có lúc tất cả những thực thể này phải được xem như một tổng thể duy nhất. Khi đã thực chứng toàn thể tiềm năng nội tâm, thì chính bạn trở thành một vị Phật. Đấy là mục đích tối hậu của đạo sư du già.

     

    ĐỘNG ĐẾN TIM NHỜ CẢM HỨNG

    Vấn đề của chúng ta là thông thường, sự hiểu biết tôn giáo chỉ nằm trong đầu óc, không phải trong tim ta. Chúng ta hãnh diện đã nghiên cứu, nắm vững triết lý và thực hành của nhiều tôn giáo hoàn cầu, nhưng thâm tâm ta vẫn mê muội, không được điều phục. Những người Tây tạng thường nói: "Bơ là để thuộc da, nhưng cái bình da đựng bơ vẫn cứng trơ không nao núng." Tri kiến tâm linh là cốt để giảm bớt thành kiến hạn cuộc, khắc phục mê muội. Thế nhưng người ta có thể hiểu biết nhiều về tôn giáo mà vẫn không thay đổi chút nào nhờ hiểu biết ấy. Nghiên cứu vấn đề tâm linh bằng tri thức thì trái tim ta vẫn bất động, không ảnh hưởng gì.

    Chúng ta thiếu một nguồn cảm hứng hay sự gia trì cho tâm ta. Ta cần được thuyết phục bằng kinh nghiệm sống động về một thực tại tâm linh mãnh liệt cùng hiệu lực của nó, trong ta và ngoài ta. Nếu không, con mắt tuệ của ta vẫn khép lại, không thể thấy được thực tại sâu xa dù có nghiên cứu bao nhiêu sách vở.

    Như chúng ta đã nói, chính bậc thầy là người cung cấp nguồn cảm hứng cần thiết ấy, cung cấp mối liên lạc giữa tâm ta và kinh nghiệm tâm linh thực thụ. Trong lối hành xử của bậc thầy, ta có thể trông thấy tận mắt những hiệu quả tốt lành của sự luyện tâm theo từ bi và trí tuệ. Nhờ nghĩ đến cuộc đời tận tụy của thầy ta đối với mọi người, không chút ngã ái, cũng như nghĩ đến nhiều đức tính khác nơi thầy, rồi nhờ tan hòa hệ phái của thầy vào tim ta, mà ta có thể thấm nhuần những đức tính giác ngộ. Nhiều thế hệ bậc thầy đã kinh nghiệm rằng thực hành những pháp quán ấy, đồng thời buông bỏ ngã chấp, sẽ có hiệu quả sâu xa, chuyển hóa được tri thức khô khan thành tuệ giác.

    Khi thực hành đạo sư du già, cần phải kiên nhẫn tiến hành tuần tự, không nên miễn cưỡng làm cho xong việc. Nhất là việc xem thầy như vị thần trong thiền quán. Trong thực tế ta không thể đồng nhất như vậy, nếu chưa phát triển được phần nào những đức tính của vị thần trong chính tâm ta. Bởi thế không nên gắng gượng. Nếu sự tu tập những kỷ thuật mật tông sâu xa này mà phải thoái hóa thành một lễ tục bắt buộc, thì thật là điều quá tệ, không khác nào chỉ đi nhà thờ vì tục lệ xã hội bắt buộc. Để tránh điều này, ta phải làm cho việc tu tập phát triển từ từ. Cuối cùng khi đã quen thuộc với bản chất của tâm, với những đức tính của bậc thầy, với hiệu nghiệm của việc quán tưởng vị thần bằng ánh sáng, ta sẽ bắt đầu cảm thụ được sự thâm thúy của Đạo sư du già.

    BỎ THÓI QUEN CHẤP TƯỚNG

    Những pháp hành mật tông chẳng những giúp ta hết lệ thuộc khoái lạc giác quan, mà còn khỏi thói chấp tướng và các khái niệm phàm tình. Từ vô thủy đến nay, ta đã bị "tẩy não" để tin cái thế giới thuộc cảm quan là tuyệt đối có thực. Bây giờ tu mật tông là ta cố phá hủy thói quen thâm căn cố đế này. Việc ấy không phải dễ; trí chân không còn ấu trĩ nơi ta rất dễ dàng bị sự áp đảo của cái biết thô thiển thuộc giác quan. Cũng như nhà khoa học đã biết cái bàn chỉ là một tập hợp tạm thời của những năng lượng không ngừng chuyển động, nhưng trên thực tế ông lại thấy nó là vật thể tĩnh và đặc. Bởi thế ta cần thường xuyên thực hành quán chiếu để đánh tan quan niệm sai lầm về tính thực hữu của các pháp, tăng cường chính kiến về bất nhị.

    Một khó khăn lớn là ta dễ chấp nhận thực tại thuộc kinh nghiệm giác quan hơn là thực tại do quán tưởng. Ta thường nghĩ: "Tôi có thể quán thân mình thành ánh sáng, song đây chỉ là một trò chơi của tâm tôi. Nó không có thực, trong khi thân vật lý của tôi thì có thực; tôi có thể sờ chạm nó, thấy nó trong gương."

    Ta cần tập coi những kinh nghiệm do tưởng tượng không khác gì những kinh nghiệm giác quan. Cả hai chỉ hiện hữu với cái tâm đang kinh nghiệm chúng, không có thực tại tối hậu, tự tồn. Nhưng chỗ khác nhau là : kinh nghiệm giác quan phàm tình tiếp tục trói buộc ta vào chu kỳ khổ đau bất mãn, còn kinh nghiệm do thiền quán đưa chúng ta đi sâu vào tầng vi tế của bản thể. Với tâm rất vi tế bằng ánh sáng trong suốt này, ta có thể phá vỡ ngục tù khái niệm phàm tình, và kinh nghiệm được hạnh phúc bất tận của toàn giác.

    Nếu chưa từng nếm vị phúc lạc của bản tâm và chưa từng thấy tận mắt làm thế nào để đạt đến trạng thái tỉnh giác và khoáng đạt sâu xa vượt ngoài cảm nghĩ, thì dĩ nhiên bạn rất hoài nghi. Có lẽ bạn nghĩ rằng niềm vui bạn có khi được ăn kem chẳng hạn là có thực, còn bất cứ hỷ lạc nào bạn có thể cảm nghiệm trong thiền định chỉ là ảo tưởng. Cách duy nhất để vượt qua hoài nghi này là tập quen thuộc với thực tại nội tâm của mình cho đến khi nó thành một thực tại không thể chối cãi. Và nhờ thực hành đạo sư du già và những phương pháp chuyển hóa kế tiếp, ta có thể quen thuộc với tính phúc lạc sâu xa của tâm ta.

    Read more »
  • THÀNH TỰU

    THÀNH TỰU

    GIAI ĐOẠN THÀNH TỰU : KIỂM SOÁT NĂNG LƯỢNG VÀ NỘI HỎA

    Pháp tập luyện giai đoạn Sinh khởi ba thân kỳ thực chỉ để chuẩn bị cho việc tu tập nâng cấp gọi là giai đoạn Thành tựu, để thực sự biến cải thân tâm phàm tình của chúng ta thành thân tâm của một thực thể toàn giác. Nhưng sự chuẩn bị của giai đoạn sinh khởi là điều tối cần : chính nhờ nới lỏng những khái niệm cụ thể mà ta có về bản thân mình, bằng cách phát sinh hình ảnh vị thần từ chân không, và đào luyện niềm tự hào thiên thần rằng chính mình là vị thần ấy, chính nhờ làm vậy mà ta tạo được không gian thuần khiết cho sự chuyển hóa phát sinh.

    Khi đã đủ thiện xảo để tu tập giai đoạn thành tựu như làm phát sinh Nội hỏa (Tạng ngữ là Tum mo) tại luân xa ở rốn, ta có thể đưa tất cả luồng khí lực đi vào huyệt đạo trung ương, khiến chúng hoàn toàn tan vào đấy như khi ta chết. Kết quả là ánh sáng tuệ của bản tâm sẽ ló dạng, và cuối cùng ta có thể biểu hiện thân huyễn như cầu vồng. Thân huyễn này có thể tự do giã từ thân xác rồi trở lại. Điều này thực sự xảy đến chứ không chỉ là quán tưởng như khi còn trong giai đoạn sinh khởi trước kia. Năng lượng kundalini ngủ yên trong ta bây giờ được đánh thức, ta đạt đến trí tuệ và đại lạc đồng thời; và vượt qua được mọi giới hạn của thân vật lý.

    Khi đã đạt đến sự làm chủ luồng nội khí để có thể đưa nó vào bất cứ huyệt đạo nào ta muốn, thì ta còn có thể kiểm soát năng lực ngoại giới. Có nhiều chuyện kể về ảnh hưởng lớn lao mà những thiền giả mật tông đã chứng đắc có thể tác động trên vũ trụ bên ngoài. Ví dụ trong một buổi lễ lớn mà đức Tsongkhapa tổ chức tại thủ đô Tây Tạng ngày xưa, người ta thắp hàng ngàn ngọn đèn bơ để cúng dường tượng Phật Thích Ca. Bỗng một ngọn lửa bừng lên làm mọi người kinh hãi đến báo cho Tsongkhapa biết những đèn cúng dường sắp đốt cháy chùa. Khi ấy Tsongkhapa ngồi xuống nhập định, và tất cả đèn vụt tắt. Người ta có thể xem đây là một phép lạ, song kỳ thực không có gì huyền bí khó giải thích về điều ấy. Bởi vì người nào có thể làm chủ được nội khí như Tsongkhapa cũng chắc chắn có thể điều khiển được khí bên ngoài.

    Tôi nghĩ thiền định về nội hỏa rất phù hợp với tâm thức người ngày nay, vì họ mê say nguyên liệu vật chất. Người ta thích làm việc với vật chất, chơi với vật chất, điều khiển và chuyển hóa vật chất. Và do điều khiển vật chất, họ còn muốn điều khiển cả tâm con người. Thiền quán Nội hỏa cố làm được điều ấy: do điều động năng lượng bên trong cơ thể vật lý, ta có thể nới rộng phạm vi tâm thức và kinh nghiệm những mức độ cao hơn về lạc tuệ.

    Tôi cũng nghĩ rằng nhiều người ngày nay hết sức nóng nảy; họ muốn những hiệu quả tức thì. Họ mua cà phê tức thì, mì ăn liền, điểm tâm có liền, liền liền đủ thứ. Và khi đi vào lĩnh vực tu hành họ cũng muốn được thỏa mãn liền, có kinh nghiệm chứng ngộ liền. Với pháp tu nội hỏa, đây là điều ta có thể thực hiện. Dựa theo một số phương pháp thực tiễn được đặt ra một cách khoa học và khúc chiết minh bạch, ta sẽ có được kết quả là một tâm thức hoàn toàn biến đổi. Ta không cần phải chấp nhận một tín ngưỡng bất thường nào, chỉ cần tuân theo chỉ dẫn, thì những kinh nghiệm tự động xảy đến. Nhờ tập trung vào các nguồn năng lượng có sẵn trong thân tâm ta, mà cái thực tại ta kinh nghiệm có một biến chuyển sâu xa. Điều ấy thực đơn giản và trực chỉ.

    Thề kỷ 20 này có tốc độ kinh khủng, đầy năng lượng. Cùng với sự bùng nổ năng lượng ghê gớm này, nhiều chuyện tốt lành đang xảy ra, và cũng nhiều tai họa khủng khiếp nữa. Sự thể là như thế. Bởi vậy nếu muốn làm một điều gì tích cực với cuộc đời mình, ta cần một phương pháp ít nhất cũng mãnh liệt bằng những năng lượng vật chất rối ren trong đó ta đang mắc vướng. Những lý thuyết triết học dù vĩ đại đến đâu cũng không đủ giúp ta ra khỏi những khủng hoảng hiện thời. Tư tưởng triết học tự chúng chỉ như những đám mây không thực chất; mới đầu có vẻ đẹp đẽ nhưng sau đó mau chóng tan đi, để lại mình ta với tình trạng vô vọng như trước. Chúng ta cần một cái gì năng động, mãnh liệt, trực tiếp. Ta cần một cái gì mình có thể làm ngay, đạt hiệu quả ngay. CÁI GÌ ấy chính là mật tông, nhất là giai đoạn "thành tựu" của du già nội hỏa.

    Câu chuyện về hiệu quả tức thì và sự phát sinh đại lạc như thế nghe ra thật hấp dẫn, nhưng đừng quên hai điểm hết sức quan trọng. Trước hết mặc dù pháp hành nội hỏa đương nhiên dẫn khởi kinh nghiệm đại lạc, song mục đích chính của nó là giúp ta đi vào trạng thái tuệ với ánh sáng trong suốt. Chính tuệ này, một cái thấy trực tiếp chiếu vào thực chất mọi sự, sẽ giải thoát ta khỏi dây trói của vọng tưởng vô minh. Hỷ lạc tự nó không làm được việc này. Bởi vậy, bằng pháp thiền quán nội hỏa, ta cần phải phát triển một sự liễu tri mạnh mẽ về chân không, bất nhị, phi tự tính, của chính kinh nghiệm hỷ lạc ấy. Nếu ta cứ theo thói cũ mà xem cảm giác hỷ lạc là thực hữu tự tồn, thì sự phát sinh năng lượng ham muốn mạnh mẽ do thiền quán nội hỏa chỉ đưa đến những hậu quả khốc hại.

    Hơn nữa, không bao giờ nên bị lôi cuốn bởi kinh nghiệm hỉ lạc đến nỗi quên mất động lực chính của mật tông. Mục đích cuối cùng của Phật giáo, theo kinh thừa cũng như mật thừa, là để đem lại tối đa lợi ích cho người khác. Nếu ta quá chú trọng nỗ lực được hỉ lạc mà quên sự lợi tha, thì tuyệt đối không cách gì ta có thể thành công trên đường tu tập. Chúng ta chỉ có tạo thêm nhân tố cho bất hạnh và đau khổ.

    SỰ TỈNH THỨC ĐẦY HỶ LẠC

    Khi dần dần quen thuộc với kinh nghiệm ánh sáng đầy hỉ lạc ở huyệt đạo trung ương, ta sẽ phát triển một phương pháp hiệu lực để vượt qua những kinh nghiệm phàm tình, hạn cuộc về thế giới giác quan này. Ta có thể, trong đời sống hàng ngày, hội nhập bất cứ gì xảy đến với kinh nghiệm nội tâm về sự tỉnh thức đầy hỉ lạc ấy. Khi ấy không còn lo gì những lạc thú thường tình mà ta hưởng thụ có thể khuấy động sự an tịnh của tâm ta. Ngược lại, bất cứ khoái lạc giác quan nào ta có do tiếp xúc những đối tượng khả ý cũng sẽ tan hòa vào tuệ giác hỷ lạc một cách dễ dàng, và nhờ thế tăng thêm sự an tĩnh nội tâm ta.

    Mỗi khi một giác quan tiếp xúc với một đối tượng gây lạc thú, thì thay vì sa vào thói vồ vập, bám víu để đưa đến chán chường và thất vọng như thường tình, ta có thể đưa cái năng lượng mà đối tượng ấy gợi lên, cho nó đi vào huyệt đạo trung ương để lan khắp toàn thể hệ thần kinh trong ta. Và đồng thời ta có thể để cho ý thức hỷ lạc này thể nhập vào không gian trong sáng của bất nhị. Thế là tất cả những vấn đề liên hệ đến dục vọng đã được giải quyết: thay vì đưa đến bất mãn, năng lượng dục vọng bây giờ được làm nhiên liệu cho sự chứng nghiệm cái TOÀN VẸN.

    Nhờ phát triển nguồn hỷ lạc nội tâm, ta đâm ra ít đòi hỏi gì ở hoàn cảnh. Sự sáng suốt nội tâm ta dần dần giải thoát ta khỏi lệ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài. Khi mọi sự trong sinh hoạt hàng ngày không được trôi chảy, ta không còn xem đó là một vấn đề. Ta cũng không còn lo lắng về tương lai. Lo gì ngày mai ta sẽ mất đi một lạc thú phù vân nào đó, trong khi hiện tại ta có đầy đủ hỷ lạc nội tâm ? Và cũng đừng tưởng rằng cảm nghiệm hỷ lạc nội tâm này có hơi ích kỷ. Ta càng hài lòng trong nội tâm thì càng dễ đem niềm vui đến cho người khác.

    Dĩ nhiên, việc tu tâm để đạt được trình độ ấy cần rất nhiều thực tập. Hiện tại ta không dễ gì duy trì cảm giác nội lạc và quân bình ấy. Nhưng nếu nhớ lại ta cũng đã có đôi lần cảm nghiệm được điều ấy phần nào, thì ta có thể tin tưởng mình có khả năng cảm thọ sự bình an nội tâm trở lại như thế. Nhất là khi ta đã được giới thiệu những kỷ thuật mật tông để làm phát sinh đại lạc và tâm sáng suốt, thì ta có lý do để cảm thấy hứng khởi. Càng tập luyện những kỷ thuật này, ta càng nhận thức được chắc chắn mình có thể làm cho đời mình thực sự xứng đáng, lợi ích cho bản thân và cho mọi người.

    NAM THẦN VÀ NỮ THẦN

    Khi ta đã làm chủ được những pháp hành mật tông ở giai đoạn thành tựu, đã kềm chế đưọc những luồng khí lực vi tế.v.v. sẽ đến một lúc xuất hiện những nam thần nữ thần. Những nam nữ thần ấy là gì? Nói đơn giản, ấy là những người nam người nữ có được kinh nghiệm chuyển hóa của mật tông, và bởi thế có khả năng làm tăng trưởng lạc tuệ nơi một hành giả cao cấp. Ở giai đoạn "thành tựu" sẽ có một thời điểm mà sự ôm một con người như vậy là cần thiết để đưa tất cả luồng khí lực vào huyệt đạo trung ương, một điều kiện để triển khai toàn vẹn luân xa tim, ngõ hầu đạt đến tầng sâu nhất của Ánh sáng trong suốt.

    Nhiều người vì thấy những tượng tranh Tây tạng trình bày những vị thần ôm nhau, đã có quan niệm lầm lẫn rằng Phật giáo Tây Tạng toàn chú trọng đến quan hệ nam nữ. Như đã nói, nghệ thuật này chỉ muốn trình bày kinh nghiệm về cái Toàn thể bất khả phân : phương pháp và trí tuệ, hỷ lạc và chân không -những đặc tính của toàn giác. Bây giờ nói đến pháp hành trong giai đoạn "thành tựu", người ta lại có thêm cơ hội để hiểu lầm hơn nữa. Bởi thế, cần nhấn mạnh rằng, khi chưa đạt đến sự làm chủ những luồng khí vi tế trong thân, chưa "ôm trọn" năng lượng kundalini đầy phúc lạc trong mình, thì ta chưa đủ tư cách để ôm một người nào bên ngoài hết trọi.

    Sự ôm trong mật tông và cái ôm sinh lý thông thường khác nhau trời vực. Điều này sẽ rõ khi ta nhớ rằng, trong giai đoạn "thành tựu", hành giả đã hòa tan tất cả các luồng khí lực vào huyệt đạo trung ương, kinh nghiệm cái trạng thái thân và tâm xảy ra lúc chết. Khi chưa đi vào được kinh nghiệm này với tất cả tỉnh giác và chủ động, thì nói đến việc ôm trong mật tông chỉ là chuyện đùa. Hơn nữa, trong cái ôm chân thực của mật tông, thì chính năng lượng nữ đi vào nam, chứ không phải ngược lại như cái ôm thông thường.

    KẾT QUẢ CỦA PHÁP HÀNH MẬT TÔNG

    Có nhiều mức độ thành công khi tu các pháp mật tông về chuyển hóa. Sự thành tựu cao nhất dĩ nhiên là đạt đến ba thân Phật, nghĩa là đạt toàn giác ngay trong đời này, trước khi chết. Điều này quyết định có thể xảy ra, nhiều hành giả thành công đã đạt toàn giác theo cách đó. Tuy nhiên nếu không thể khám phá ngay tính toàn vẹn của bản thể, ta vẫn có thể khám phá được nó vào lúc chết, hoặc lúc ở trong trạng thái trung ấm. Cho dù việc tu tập không đưa ta đến giác ngộ, nó cũng có thể giải thoát ta khỏi nỗi sợ chết, và giúp ta phần nào trong việc kiểm soát tái sinh. Chính điều này cũng là một thành tựu lớn lao, vì nó giúp ta tiếp tục tu hành trong tương lai không gián đoạn.

    Khi tu một pháp quán mật tông, dù lúc đầu có vẻ khó đến đâu, bạn cũng nên bạo dạn nghĩ "dù có đạt thành chính quả hay không, ít ra ta cũng sẽ cố gắng có được vài kinh nghiệm." Đừng nghĩ: "Tôi làm sao mà thiền quán được? Điều này hoàn toàn mới lạ đối với tôi. Hơn nữa, đời tôi đã tạo quá nhiều nghiệp ác, tôi là kẻ đầy tội lỗi. Làm sao một người như tôi có thể hy vọng thực chứng được cái gì?" Lối suy nghĩ ấy hoàn toàn sai lạc. Trước hết, bạn không bao giờ tự biết được trình độ của mình, khi chưa tu tập. Nếu nỗ lực, bạn sẽ ngạc nhiên về tiềm năng của chính mình. Thứ nữa, thật điên rồ khi nghĩ mình quá tội lỗi, khó thành công trong thiền quán. Hãy nhìn cuộc đời Milarepa. Ngài đã tạo bao nhiêu nghiệp ác, giết bao nhiêu người, thế nhưng Ngài vẫn có được năng lực thực chứng sự từ bỏ, tâm bồ đề và chân không, và cuối cùng giác ngộ nhờ thực hành mật tông. Chính Ngài đã công nhận rằng trước kia Ngài đã từng là một tội nhân đại hình, nhưng nhờ sự hướng dẫn của bậc thầy Marpa và chí cương quyết của mình, Ngài đã chuyển hướng năng lượng trong mình để thành một thiền giả vĩ đại. Nếu Milarepa có thể thắng lướt dĩ vãng đầy tội lỗi của mình, thì tại sao bạn lại nghĩ bạn không làm được, trong khi bạn còn hiền hơn Ngài nhiều?

    Tôi cũng chú ý rằng những người đã từng gây nhiều ác nghiệp trong đời, khi quay lại tu tập thường dễ thành công hơn người khác. Trong khi đó, những người đặt ít năng lượng vào sinh tử thì cũng thường có rất ít năng lượng cho việc thực chứng niết bàn. Những người ấy quá trơ lì không được một việc gì cả, dù thiện hay ác.

    Điều tôi muốn nói ở đây là, đã làm được con người, thì ta không bao giờ nên đặt giới hạn mình có thể thành tựu được bao nhiêu, dù hiện tại đời ta có ra sao đi nữa. Có thể bao nhiêu lần nỗ lực thiền quán bạn vẫn bị tán tâm, nhưng bỗng chốc có một tiềm năng nào đó trở nên thuần thục, đem lại cho bạn khả năng lạ lùng để tập trung không gián đoạn trong những thời gian dài. Những điều này thực sự đã xảy đến, bởi vậy bạn hãy can đảm lên, và tiếp tục cố gắng. Ít nhất bạn nên quyết định mạnh mẽ như sau: "Tôi sẽ đạt được sự làm chủ tâm mình để nếu có tai họa xảy đến, hoặc lúc chết, tôi sẽ đủ định lực và sự sáng suốt bình tĩnh nhận ra cái gì sắp xảy ra." Bạn chỉ cần giữ một loại động lực tu hành như thế cũng đủ. Nó sẽ làm cho bạn có khả năng thể hiện viên mãn tiềm năng nội tâm của mình còn nhiều hơn bạn tưởng.

    NHỮNG ĐỨC TÍNH ĐƯA ĐẾN THÀNH CÔNG

    Nhưng muốn đạt đến bất cứ trình độ thực chứng nào nhờ tu mật tông, ta cần phải có 4 đức tính. Trước hết là niềm tin bất hoại. Điều này có nghĩa phải thấy rõ con đường ta đang theo, từ lúc quy y cho đến giai đoạn cuối của sự tu tập, là một con đường bảo đảm đáng tin cậy. Khi đã thấy được bằng kinh nghiệm bản thân, rằng con đường này có thể đưa ta về hướng ta muốn đến, thì lòng tin của ta không ai lay chuyển nổi.

    Nói cách khác ta cần có sự tự tín. Điều này khá dễ khi ta có những bạn đạo hay ở gần bậc thầy. Trong một môi trường được che chở như vậy, sự tu hành giống như cùng san sẻ một nền văn hóa, ta không cảm thấy lạc lỏng. Nhưng khi từ giã tình huống được cách ly một cách giả tạo này để trở về đời sống thường nhật, ta có thể mất đi niềm tự tín đối với việc tu hành. Ta bị áp lực của những mong đợi và sự đánh giá của mọi người, kiểu như "Thiền quán để làm gì? tại sao phải ngồi ngắm lỗ rốn của bạn, trong khi có bao nhiêu điều hấp dẫn khác để làm với cuộc đời của bạn?" Thế là ta dễ dàng sa vào ảnh hưởng của họ. Thế là một lần nữa, ta lại chìm vào trong đống rác của đời sống thường ngày, không phương cách nào chuyển nó thành một cái gì đáng kể. Nhưng nếu ta được lòng tin bất động, thì sự tu tập của ta không ai lay chuyển nổi. Chẳng những không bị ngoại cảnh cuốn phăng đi, mà ta còn có thể chuyển hóa nghịch cảnh thành đường lối tu hành.

    Đức tính thứ hai là giải thoát khỏi hoài nghi, do tâm không sáng suốt. Khi ta đã có tuệ giác sáng suốt, hiểu rõ những yếu tố khác nhau của pháp tu, như trình tự, mục đích của chúng v.v. thì tất cả những hoài nghi chướng ngại cho tu tập tự nhiên sẽ tan biến.

    Điều quan trọng đối với chúng ta là phải biết rõ cơ cấu liên kết các pháp tu. Có nhiều người đã đi nghe giảng giáo lý khá nhiều năm, nhưng đôi khi tôi nghe họ phàn nàn: "Tôi hoàn toàn mù tịt không biết phải khởi sự từ đâu. Tôi đã thọ giáo với nhiều thầy, nên bây giờ tôi không biết ai là vị thầy chính của tôi. Tôi lại còn không biết phải tu pháp thiền quán nào trước hết." Nếu chúng ta đã học nhiều dề tài khác nhau, đã thọ nhiều pháp quán đảnh, đã được nhập môn nhiều pháp thiền quán, mà vẫn không biết làm sao để tu tập, thì điều ấy chứng tỏ chúng ta mất căn bản. Một điều đẹp đẽ trong truyền thống Phật giáo Tây Tạng là nó có một cấu trúc hết sức rõ ràng từ đầu chí cuối. Có thể nói có một bản đồ rõ ràng về những trình tự tu chứng. Theo tôi điều này thật tuyệt. Bởi vậy nếu bạn cảm thấy hoang mang thì hãy theo một bậc thầy có kinh nghiệm, để tự mình kiểm chứng xem cấu trúc đó ra sao, rồi tu theo một cách tuần tự.

    Điều thứ ba là cần phải phát triển sự tập trung toàn triệt, nhất tâm. Không thể nào đi sâu vào pháp tu và nếm được hương vị của nó nếu ta thiếu sự tập trung bền vững. Ví dụ, nếu muốn kiểm soát những luồng năng lượng khác nhau trong hệ thần kinh vi tế của ta, ta không thể có ý niệm mơ hồ về những luồng khí lực, chẳng hạn không biết chúng ở đâu, vận hành như thế nào. Ngược lại, ta phải có một hiểu biết thật chính xác, và điều này chỉ xảy đến nếu tâm ta hoàn toàn tập trung. Về điểm này, tu mật tông không khác gì làm các công việc khác. Những người thành công trong việc làm của họ, dù đó là việc học, hay chơi thể thao, hay bất cứ việc gì - tất cả đều có chung một điều là, tập trung cao độ. Nếu không có nó, người ta không thể tiến xa.

    Hãy xét trường hợp sau đây. Người ta thường nói nhờ tu mật tông, mọi hoạt động được thúc đẩy bởi lòng ham muốn - như muốn uống một cốc sô cô la - đều có thể chuyển thành kinh nghiệm lạc tuệ lớn lao. Nếu đã tu tập khá, năng lực tập trung đủ mạnh, ta có thể theo dõi một cách chính xác những gì xảy đến khi ta thưởng thức cốc sô cô la ấy. Ta có thể lèo lái tất cả năng lượng đã được đánh thức đi theo một hướng nhất định, để làm tăng luồng nội hỏa ở đan điền. Hơi nóng này đưa nhiều năng lượng lạc thọ vào hệ thần kinh, và toàn thể kinh nghiệm này trở nên đầy hương vị nhờ tuệ giác khoáng đạt về tính "không hai". Đối với con người rõ biết những gì mình đang làm, thì việc uống một cốc sô cô la đơn giản cũng trở thành một phương pháp đầy năng lực để động đến thực tại về lạc tuệ. Điều ấy không phải chỉ mong muốn hay giả vờ, mà thực sự xảy ra.

    Nhưng thông thường, chúng ta mất liên lạc với thực tại nội tâm. Chẳng hạn khi uống một cái gì, ta không có sự rõ biết trực tiếp về những gì xảy ra ở lưỡi, bao tử, hệ thần kinh hay thân tâm ta nói chung. Khác với một hành giả biết rõ điều gì đang xảy ra và có thể điều khiển năng lượng theo cách này cách khác khi cần, chúng ta không biết được. Thay vì kinh nghiệm lạc tuệ, có lẽ ta chỉ có kinh nghiệm đau bụng đi chảy.

    Cuối cùng, muốn chứng đắc cao nhất, ta phải giữ bí mật sự tu tập của mình. Điều này nghe lạ lùng, song kỳ thực là một điểm rất quan trọng. Danh từ Mantra có nghĩa là che chở tâm, và chữ "mật" trong mật tông là để nhắc nhở cho ta nhớ rằng những phương pháp này cần được giữ riêng cho mình như một kho tàng quý báu. Ngày nay sự thực hành mật tông đã khá suy đồi; nhiều người tu mật tông lại đi khoe "tôi đang hành mật tông, hãy xem tôi có thể làm thế này, thế nọ." Một thái độ kiêu căng công khai như vậy là thiếu trí, nó chỉ làm chướng ngại cho việc tu tập. Chẳng thà giữ một bề ngoài khiêm cung trong khi bên trong là một hành giả cỡ lớn, còn hơn bên ngoài có vẻ lớn lối mà bên trong không có gì.

    Những thiền giả vĩ đại trong quá khứ đã nói rằng nếu chúng ta đào luyện được bốn điểm trên đây - lòng tin bất hoại, chấm dứt hoài nghi, tập trung cao độ, và giữ bí mật - và thực hành một cách kiên trì và chính xác, thì những thực chứng chắc chắn ở trong tầm tay ta. Theo kinh nghiệm của nhiều hành giả, ta có thể đạt đến một điểm ở đó một sự bùng vỡ lớn về trí tuệ và thực chứng xảy ra. Nó như là phút trước ta vẫn còn là một phàm phu ngu tối mà phút sau đã biến thành một hành giả thực chứng cao siêu. Đây không phải là điều bịa đặt, nó đã thực sự xảy ra. Con người thuờng tình chúng ta bị gói kín trong những tấm màn mê tín. Nếu có thể nới lỏng bớt những khái niệm ngột ngạt này, ta có thể đoạn tuyệt để xuyên thấu chiều sâu của thực tại. Trong khi ta không chờ đợi cái gì đặc biệt xảy đến, thì bỗng dưng bùng nổ một thực chứng lớn lao, không cần dụng công nỗ lực. Nhưng không ích gì chỉ đọc kinh nghiệm của người khác. Muốn được những lợi lạc của sự chuyển hóa trong mật tông, chính ta phải đào luyện những kinh nghiệm ấy.

    Read more »
  • HÀNH XỬ NHƯ PHẬT

    HÀNH XỬ NHƯ PHẬT

    CHUYỂN THÂN HÈN MỌN RA THÂN ỨNG HÓA

    Điều quan trọng nhất trong mật tông là phải có được một tiền vị, một kinh nghiệm thực thụ về những gì có ý nghĩa đối với ta. Dù chỉ có một thỏi sô cô la nhỏ bé, nhưng được nếm nó là ta thấy khoái rồi. Bởi thế những người nào nắm đựơc một cái gì thật minh bạch trong tâm trí rồi ngay khi hiểu được, liền đưa nó vào tim, thì đấy là những người thực sự hành trì mật tông. Đấy là những người có được thỏi sô cô la. Tâm nhị nguyên thông thường của ta, cái mà người ta thường gọi là tâm thực tiễn, luôn luôn diễn dịch rằng có một cái gì đó chưa được toàn hảo lắm nơi tôi và nơi hoàn cảnh xung quanh. Đó là một tâm lý luôn luôn chỉ trích, tìm lỗi. Đó là triệu chứng của tâm nhị nguyên: luôn luôn có một cái gì không ổn. Tâm nhị nguyên của chúng ta hoặc thổi phồng quá trớn, hoặc đánh giá quá thấp những gì hiện hữu. Một cái tâm bất mãn, bất thường như thế không bao giờ theo trung đạo. Dù cố ý hay vô tình, tâm lý ấy luôn luôn nghĩ: "Bản chất tôi xấu xa. Tôi sinh ra đã xấu, hiện tại cũng xấu, tôi sẽ chết mang theo những tội lỗi, và cuối cùng xuống địa ngục." Dù có tôn giáo hay vô thần, khi mất liên lạc với bản tâm là ta vẫn còn bị ảnh hưởng của những quan niệm chủ bại sai lầm như thế. Nếu muốn giải thoát mọi bệnh tật về thân tâm, thì điều cực kỳ quan trọng là phải đánh tan mọi khái niệm sai lầm tự bỉ ấy.

    Vấn đề của chúng ta ở đâu ? Chính là ở chỗ ta cảm thấy "Tôi là người tệ nhất trên đời, xấu xa, tham sân si đầy dẫy, ôi tôi thật là tệ." Cái kiểu suy tư như vậy thật hoàn toàn tiêu cực. Chính đây là điều ta cần thanh lọc.

    Mật tông dạy rằng con người có một đức tính thần tiên. Trọng tâm của mỗi người, bản chất tinh túy của họ, là một cái gì thuần tịnh, thiêng liêng. Muốn nhận ra nó, và hội nhập sự thực chứng ấy vào đời sống của ta chứ không chỉ là hiểu biết bằng tri thức, thì điều cần thiết là ta phải hóa thân làm một thiên thần.

    Biến mình thành một thiên thần không phải là chuyện liên can đến văn hóa hay tín ngưỡng nào đặc biệt. Bạn đã tự biến mình thành cái gì rồi. Khi bạn biến ra hình ảnh thảm hại về chính mình, thì bạn không cho đấy là do một nền văn hóa đặc biệt nào cả, bạn chỉ có tự biến ra. Bởi vậy hãy tốp thói quen ngu si ấy; mà đào luyện một niềm tự hào mãnh liệt về tính thần tiên và tự biến mình thành một thiên thần. Hãy khởi sự sống đúng theo tiềm năng mãnh liệt của bạn.

    Phương pháp tốt nhất để tập luyện điều này là thiền quán về ba thân Phật. Những bậc thầy mật tông vĩ đại trong quá khứ như Tsongkhapa thường nhấn mạnh rằng, không có pháp tu nào thiết yếu hơn thế.

    HÒA TAN

    Trong mật điển, pháp thiền quán ba thân - thuộc pháp quán các vị phật thiền - có nhiều chi tiết, nhưng ở đây ta có thể làm cách vắn tắt như sau cũng đủ. Khởi đầu là nhớ lại ba pháp quy y, phát tâm bồ đề mong giác ngộ để lợi lạc hữu tình. Rồi làm phép Đạo Sư Du Già, căn bản của mật tông. Quán bậc thầy mật tông ở trước mặt, xem ngài như hiện thân của mọi đức tính giác ngộ mà ta mong thực chứng trong tâm ta. Tưởng tượng bậc thầy ngồi trên đỉnh đầu tan thành luồng ánh sáng đi xuống tim ta. Khi bậc thầy đi xuống như thế, ta quán tưởng mình đang trải qua những ảo tưởng của sự chết đưa đến sinh khởi Ánh Sáng Thuần Tịnh của bản tâm. Bằng cách ấy chúng ta quán sự hợp nhất giữa tuệ lạc của bậc thầy với tâm thức vi tế nhất của ta. Khi cố nhớ lại những pháp gia trì thầy đã ban, trí tuệ và từ bi của thầy đối với ta, ta nên tưởng tượng sự hợp nhất ấy là vô cùng phúc lạc. Ta càng có khả năng thể nghiệm lạc thọ bao nhiêu, tiến trình chuyển hóa càng dễ bấy nhiêu.

    Kinh nghiệm phúc lạc vi tế của sự hợp nhất này vượt ngoài mọi khái niệm đối đãi thường tình. Khi tất cả mọi tướng phàm tình đã tan vào bầu hư không trống rỗng của trí bất nhị và đại lạc đồng khởi, chúng ta tập trung vào sự tan hòa ấy một cách nhất tâm không tán loạn. Hãy nghĩ "đây là pháp thân giác ngộ, và đây mới thực là tôi." Nhờ tự đồng hóa hoàn toàn với pháp thân, ta chuyển hóa được kinh nghiệm chết thông thường thành con đường đưa đến giác ngộ.

    Khi thiền quán về pháp thân cách ấy, những khái niệm về tự ngã mà ta đã có bấy lâu sẽ từ từ rơi rụng; đây cũng đủ để được xem như một kinh nghiệm về chân không. Không nên nản chí nghĩ "tôi không có thực chứng nào về chân không. Ngay cả danh từ này tôi cũng không hiểu, thì làm sao để quán." Suy nghĩ vậy là một chướng ngại. Chung quy, ta đã có phần nào kinh nghiệm về ánh sáng trong suốt. Chúng ta đã chết nhiều lần trong quá khứ, và theo mật tông thì tiến trình chết tự động đưa đến sự khám phá Ánh sáng trong suốt, tính Toàn vẹn không hai. Không những khi chết, mà khi ngủ và lúc say sưa, ta cũng có được một mùi vị của ánh sáng trong suốt thể hiện cái Toàn vẹn này. Những kinh nghiệm như thế đánh đổ phần nào tự ti mặc cảm của ta. Bởi thế không nên lo lắng bạn chưa hiểu được Tính không một cách sâu xa; hiện tại chỉ cần bạn không vướng bận những khái niệm đối đãi. Hãy buông xả, để cho mọi chấp thủ của bạn tan vào hư không trong suốt.

    Hãy duy trì sự tỉnh giác và xem tâm thức bén nhạy ấy là trí tuệ ôm trọn bầu vũ trụ trong sáng thuần tịnh. Trong không gian khoáng đạt ấy, ta không còn thấy đâu cái "tôi" tự than thân trách phận; nó hoàn toàn không hiện hữu. Hãy để cho tâm an trú trong sự khoáng đạt ấy, thoát mọi rắc rối và vận hành sai lạc, nhận thức nó là kinh nghiệm về pháp thân thực thụ. Đấy là một trạng thái tự nhiên, trong sáng không một mảy tơ tưởng nào, hoàn toàn trống rỗng mọi mâu thuẫn rối ren thuộc bản ngã. Chỉ cần bạn để cho tâm mình an trú vào đó một cách sống động.

    Có lẽ bạn hơi khó chịu khi tôi giải thích về kinh nghiệm Ánh sáng trong suốt này. Có lẽ trong tâm bạn đang cãi "ê thầy Yeshe, nếu ông bảo Không chỉ là hư không, thì ông lầm rồi. Thầy đã đơn giản hóa một vấn đề hết sức phức tạp. Đấy không phải là quan điểm của Long Thụ, đấy không phải là triết học Trung Quán. Chân không không phải là chỉ có việc giả vờ tan thành hư không." Bạn cứ cãi như vậy đi, có thể lôi hết sách triết ra mà cãi và chứng minh rằng tan thành hư không không phải là ý nghĩa mà Chân không muốn diễn đạt. Nhưng đó chỉ là chuyện mất thì giờ.

    Quả thật, trong khi nghiên cứu, chúng ta cần phải có được một cái nhìn đúng về tính không trên phương diện triết lý, để có thể hiểu được chính xác như Long Thụ, cùng tất cả các bậc đại hiền trí và hành giả khác. Nhưng bây giờ trong lúc thiền quán chúng ta không nói đến lý thuyết hay phân tích, mà cốt thực hành. Và để thực hiện kinh nghiệm ánh sáng pháp thân, mọi bậc thầy Ấn Tạng đều bảo hư không là điển hình tốt nhất cho ta hiểu được chân không hay bất nhị.

    Muốn đạt đến kinh nghiệm thực thụ về chân không, ta phải bắt đầu từ một khởi điểm nào đó. Phải có một kinh nghiệm, một ý vị về nó như thế nào, để vượt qua những mâu thuẫn đối đãi do ngã chấp phát sinh. Đây là điểm chính. Chúng ta phải buông xả phần nào mọi khái niệm thô phù, cụ thể và hạn cuộc đã giam giữ chúng ta trong tri kiến bất toàn về chính mình và về mọi sự.

    Từ quan điểm triết học, người ta nói rằng trong chân không, không có sắc thanh mùi vị .v.v. Một cái nhìn như thế có thể diễn thành kinh nghiệm thực thụ khi ta để cho mọi sự tan vào không gian bằng cách thể nhập tiến trình chết. Trong lúc hòa tan ấy, tâm ta không có cách nào tiếp xúc với thế giới giác quan quen thuộc. Trong không gian trong suốt của chân không, không có màu mùi cảm giác..., mọi rắc rối nhị nguyên đều tan biến, và kết quả là trạng thái tự nhiên của tâm ta có thể tỏa chiếu, bao trùm toàn thể thế giới thực tại. Hãy ở lại càng lâu càng tốt trong trạng thái khoáng đạt ấy, và hãy cảm thấy bạn đã đạt đến pháp thân thực thụ, trí tuệ vô ngại của toàn giác.

    TÁI XUẤT GIANG HỒ

    Bây giờ, làm sao để di chuyển sang kinh nghiệm báo thân. Trong khi lơ lửng trong không gian của pháp thân, ta buông xả tất cả cho đến khi không còn gì quấy rối tâm ta. Không một vật gì. Sau một lúc, những trò rối của nhị nguyên lại sẽ khởi sự xuất đầu lộ diện, lôi kéo sự chú ý của ta. Đây là lúc nên chuyển từ kinh nghiệm pháp thân đến kinh nghiệm báo thân. Chỉ hành giả biết được lúc nào nên tái xuất, không ai khác có thể nói được cái gì xảy ra trong tâm họ.

    Khi sự rung động của đối đãi khởi lên trong tâm, hãy nhớ lại nguyện đại bi làm lợi ích hữu tình, và hãy làm quyết định mạnh mẽ sẽ xuất hiện dưới một hình dạng có thể tương giao với kẻ khác. Khi ấy trong bầu không gian bất nhị, trong ánh sáng trong suốt của chân không, một cái gì khởi sự hiện lên. Nó giống như một gợn mây nhỏ chợt hiện giữa bầu trời bao la trong suốt. Hình dạng và màu sắc của nó tùy thuộc loại thiền quán bạn đang tu tập. Trong mật tông, đó là chủng tự biểu trưng vị thần chính yếu. Nó có thể là một hạt giống, hay một hình dạng nào khác. Nhưng dù là cái gì, cũng nên hiểu đó là biểu hiện vi tế của chính tâm ta. Nó không phải là cái gì ta ngắm nhìn từ bên ngoài, mà ta phải hoàn toàn hợp nhất với nó. Nó chính là hình dạng tâm ta mới khởi lên.

    Cũng như ta đã đồng nhất ánh sáng trong suốt trong không gian bao la với kinh nghiệm pháp thân, bây giờ ta hãy xem hình dạng vi tế này như báo thân thực thụ. Nó tương tự cái thân vô sắc ta có trong trung ấm phàm tình giữa chết và tái sinh. Ta cũng phải cảm nghiệm nó là hợp nhất bất khả phân giữa đại lạc và trí bất nhị, bây giờ được đồng nhất với báo thân của một vị Phật. Hãy nghĩ "đây thực sự là báo thân tôi." Hãy duy trì hình ảnh rõ rệt của chủng tự ấy và niềm tự hào thần tiên của báo thân trong một lúc, để chuyển hóa kinh nghiệm trung ấm phàm tình thành con đường đạt báo thân giác ngộ.

    Khi đã sẵn sàng, hãy nhớ lại tâm nguyện bồ đề lợi tha, rồi mạnh mẽ quyết định sẽ xuất hiện dưới một hình dạng có thể liên lạc với nhiều hữu tình hơn nữa. Với động lực đại bi này, chủng tự thình lình hóa thành thân thể như ráng cầu vồng của chính vị thiên thần ta quán tưởng. Hãy hiểu đây là ứng thân thực thụ của toàn giác, thay vì cái thân vật lý thô phù của tái sinh phàm tình. Ứng thân ấy cũng có bản chất của lạc tuệ đồng thời sinh khởi. Một lần nữa, hãy tự đồng hóa với hình dạng ấy bằng cách khởi lên ý nghĩ: "Đây thực sự là ứng thân tôi." Bằng cách ấy, sự tái sinh phàm tục sẽ được đưa vào đường tu, như ứng hóa thân của một vị Phật.

    Khi tu quán chư thần, ta phải thực sự cảm thấy mình là hóa thân của vị thần ấy. Đừng nghĩ mình giả vờ, mà phải tin chắc. Cũng như diễn viên vẫn còn "nhập vai" khi màn kịch đã chấm dứt, bạn sẽ ngạc nhiên thấy mình thực sự biến thành vị thần. Niềm tự hào thiên thần này là điều thiết yếu; phải ý thức mạnh mẽ mình thực sự là vị thần. Với phương pháp này, sự chuyển hóa mật tông sẽ xảy đến một cách tự nhiên và hết sức mãnh liệt. Những người tưởng pháp quán mật tông chỉ là thần tiên vờ vĩnh, thực hoàn toàn sai lạc.

    BUÔNG XẢ

    Trong lúc thiền quán, bạn thường cố duy trì trạng thái bất nhị khoáng đạt và tỉnh thức. Tuy thế bạn vẫn rất dễ bị tán loạn vì những vọng tưởng sinh khởi. Khi điều này xảy đến, đừng chống lại vọng tưởng, mà tốt nhất hãy khởi tưởng mạnh mẽ mình là vị thần bảo hộ [ví dụ Quan Âm] và phát tâm từ bi quảng đại. Hãy ở trong bầu không gian của ý thức sâu xa ấy, và cứ để mình là Quan Âm.

    Nếu vẫn bị tán loạn - chẳng hạn, bạn nghĩ đến chuyện ăn bánh bao - thì hãy đừng quá phí sức chống cự vọng tưởng ấy. Chẳng hạn, đừng có dây dưa vào một cuộc độc thoại nội tâm, kiểu như "Ồ tôi thèm ăn bánh bao quá. Ai xui khiến tôi phải đến ngồi thiền thế này, trong khi giờ này tôi có thế thong dong bát phố?" Thay vì lải nhải như vậy, hãy khởi sự đọc thần chú của Quan Âm "Om tara, tuttare, ture svaha" cho đến khi tâm trở lại an tĩnh. Như thế còn tốt hơn là để cho tâm bạn bị lôi kéo bởi câu chú phàm tục "bánh bao, bánh bao, bánh bao."

    Một chướng ngại lớn nữa của thiền định là chờ đợi quá nhiều, hy vọng quá nhiều. Thái độ mê tín này không làm ta thỏa mãn với những kinh nghiệm tốt của mình; nó luôn bắt ta so sánh kinh nghiệm ấy với một lý tưởng nào đó chỉ có trong tưởng tượng. Chúng ta lấy làm bất an với ý nghĩ : "Theo giáo lý, đáng lẽ đến giai đoạn này tôi phải có kinh nghiệm đại lạc, thế mà tôi có cảm thấy gì đâu. Chắc chắn tôi đã thất bại." Vì mong mỏi có được kinh nghiệm, nên kinh nghiệm mà ta mong đợi không bao giờ đến. Điều này dễ hiểu: làm sao lạc có thể phát sinh trong một tâm thức quá căng thẳng lo âu ?

    Giải pháp duy nhất là hãy buông xả. Hãy nhận ra hy vọng là chướng ngại, và buông xả khi nó vừa phát sinh. Nói cách khác, ta nên tu hành một cách thong dong thư thái. Đôi khi ta để quá nhiều năng lực vào việc tu tập, tự kỷ luật mình quá khắc khe, tưởng thế là sẽ mau chứng. Nhưng nỗ lực quá căng thường đưa đến hiệu quả ngược lại, đã không giúp ích mà còn cản trở bước tiến của ta.

    Như những người mới tập lái xe chưa biết thư dãn khi ngồi sau bánh lái. Vì quá chăm chú bận rộn điều chỉnh tốc độ, tay lái v.v., họ làm cho chiếc xe nhảy chồm lên, khiến người ngồi xe không được thoải mái. Lái xe trở thành một việc vất vả khó nhọc chứ không còn là một thú vui. Ngược lại, những người lái xe lão luyện thì rất thong dong tự tại. Mặc dù vẫn ý thức mọi sự xung quanh, họ biết buông xả, để cho chiếc xe tự lái. Kết quả là xe chạy rất êm, khiến ta có cảm giác như nó đang sung sướng bay giữa hư không thay vì nện binh binh trên mặt đường. Tương tự, muốn kinh nghiệm thiền lạc, ta phải buông xả những mong đợi, và giảm bớt những nổ lực hữu thức quá căng.

    NIỀM TỰ HÀO THẦN TIÊN VÀ SỰ XUẤT HIỆN TRONG SÁNG

    Giai đoạn "sinh khởi" trong việc tu tập niềm tự hào thần tiên là điều hết sức quan trọng. Khuynh hướng thông thường của ta là ưa bất mãn và chỉ trích ba nghiệp thân lời ý của mình. "Thân thể tôi thật xấu xí; giọng nói tôi không êm tai chút nào, tâm tôi thường rối ren." Chúng ta bị vướng vào thói quen bệnh hoạn ấy -ưa chỉ trích chính mình một cách vô lối- đến nỗi chúng ta chê bai những người khác nữa. Trên quan điểm mật tông, thói này cực kỳ tai hại.

    Phương pháp chữa trị là hãy đào luyện một niềm tự hào thần tiên, cái cảm giác mãnh liệt chẳng hạn như khi thể nhập kinh nghiệm ứng thân, rằng bạn thực sự là hóa thân của một vị Phật toàn giác, rằng tâm bạn hoàn toàn thoát khỏi mọi mê tín, mọi giới hạn. Nếu bạn tiếp tục nghĩ mình là một kẻ sân si, thì bạn sẽ hóa thành người sân si thực, chắc chắn không thể thành một thần tiên đầy phúc lạc. Bạn có thể chấm dứt lối suy nghĩ tai hại về chính mình như thế, để tránh những hậu quả tiêu cực, chủ bại - bằng cách đồng nhất "căn bản thức" của mình với những đức tính từ bi trí tuệ của vị thần mà bạn quán tưởng. Bằng cách ấy, bạn mở lòng ra đón nhận những nguồn cảm hứng bao la có thể chuyển hóa toàn thể cuộc đời mình. Càng tập trung mãnh liệt vào niềm tự hào thần tiên, bạn càng kinh nghiệm một cách sâu xa sự giải thoát mọi hạn cuộc và bất mãn.

    Sự thực hành mật tông Tối thượng du già có 3 hương vị đặc biệt. Một là thấy mình cùng mọi người đều có vẻ thần tiên cốt cách. Hai là tâm của hành giả không bao giờ rời trí bất nhị. Ba là mọi kinh nghiệm đều đem lại hỉ lạc lớn lao.

    Như đã nói, đừng có "giả vờ" làm thần tiên, chẳng hạn Quan Âm. Bạn phải cảm thấy tận tâm khảm sâu xa rằng mình là Quan âm, cả hai là một thực thể bất khả phân. Càng đào luyện tính nhất thể này, bạn càng có kinh nghiệm về chuyển hóa một cách mãnh liệt. Điều này hoàn toàn tự nhiên.

    Bạn cũng cần luyện tập để thấy mọi tướng đều huyễn hóa, không phải là một cái gì tách rời với tự tâm. Nói cách khác, phải nhận thức mọi tướng đều khởi từ chân không, đều có bản chất của chân không, bất nhị. Cuối cùng, cảm nghiệm của bạn về tướng chân không, huyễn hóa ấy phải là một kinh nghiệm vô cùng lạc thú. Điều này được đạt đến trong giai đoạn thành tựu của pháp du già tối thượng, bằng cách đưa chú ý vào nội tâm sao cho bạn cảm giác một cách mãnh liệt năng lượng kundalini đầy phúc lạc lan tỏa khắp thần kinh hệ của mình. Điều này giúp bạn hòa tan mọi kinh nghiệm vào năng lượng đại lạc.

    Để giúp tiến trình chuyển hóa, một vài tập luyện cơ thể như hatha-yogas, đóng một vai trò hết sức quan trọng trong khi tu tập giai đoạn "thành tựu". Nhưng đấy không chỉ là những luyện tập để cải thiện thế ngồi hay sức khỏe của bạn. Mục đích tối hậu của chúng là làm tăng năng lượng kundalini đại lạc. Năng lượng này thấm khắp hệ thần kinh vi tế của ta, nhưng phiền một nỗi là ta không nhận ra nó. Nhờ tập luyện hatha - yogas, ta có thể liên lạc với năng lượng ấy, tăng cường lạc, và biết cách thông thương với nó để dẫn nó đi bất cứ đâu theo ý muốn. Đây không phải vì mục đích đạt được lạc phàm tình, mà cốt để kiểm soát những tầng lớp vi tế nhất của thân tâm ta.

    Tuy nhiên khi làm những tập luyện ấy, điều cốt yếu là duy trì chính niệm về mình như một thần tiên. Phải gạt qua mọi ý tưởng hạn cuộc tự thương thân trách phận, thì những tập luyện này mới thực sự công hiệu. Nhờ tập luyện đúng cách sẽ đến một giai đoạn dù bất cứ làm gì ta cũng cảm thấy một nguồn hỉ lạc lớn lao. Khi thân khởi sự cảm thấy mềm mại nhẹ nhàng, thì những năng lượng vật lý trước đây vốn là gốc khổ, khởi sự phát sinh những cảm giác đại lạc. Sự chuyển hóa mật tông như vậy không chỉ là vấn đề tưởng tượng, mà cả thể chất ta cũng biến đổi lạ lùng.

    NHÂN CÁCH TRONG MẬT TÔNG

    Nhiều người nói điều quan trọng không phải là thân thể, mà là thiền quán ở nội tâm. Nhưng nói thế là sai. Theo mật tông, ta không thể nói tâm quan trọng hơn hay thân quan trọng hơn. Cả hai đều quan trọng ngang nhau. Trong pháp hành mật tông, thân thể được xem như một mảnh đất có nhiều mỏ quý. Mặc dù đau khổ, cái thân này của chúng ta vẫn chứa tài nguyên vô giá, đó là vàng kundalini, dầu hỏa kundalini.

    Tất cả chúng ta ai cũng đã từng có lần cảm thọ thân lạc lớn lao. Một đôi khi, đang ngồi thư dãn ta bỗng có một cảm giác phúc lạc nồng nàn lan khắp người. Kinh nghiệm này rất thường, không phải là một thực chứng cao siêu gì lắm. Nhưng nó cũng cho ta dấu hiệu về kho tàng lớn lao của năng lượng phúc lạc chứa trong thân ta ngay trong giờ phút hiện tại. Mục đích của mọi pháp du già, mọi luyện tập và thiền quán của tối thượng du già, chỉ là để khơi dậy, kiểm soát và xử dụng tài nguyên năng lượng đại lạc ấy để đạt đến toàn giác. Bởi vì, miễn sao đầu óc bạn vẫn tỉnh táo và có thể duy trì chính niệm, thì bạn có thưởng thức bao nhiêu lạc thú cũng không sao. Bạn có thể gọi lạc ấy là lạc sinh tử, lạc thế gian, hay gì gì cũng được, nó vẫn có thể đưa đến giải thoát.

    Tinh túy của mật tông là xử lý lạc thú một cách thiện xảo. Người có đủ tư cách để thực hành mật tông là một người "chịu chơi", với người ấy việc xử lý lạc thú trở thành một phương tiện giúp họ giải thoát. Đây là nhân cách mật tông. Nếu một người chỉ biết cách chịu đựng đau khổ, thì mật tông chẳng giúp ích gì cho họ được. Cũng giống như một lò nguyên tử không có nhiên liệu, một con người như thế sẽ không có tài nguyên để xử dụng cho những chuyển hóa cần thiết.

    Tuy vậy, tài nguyên lạc thú đã sẵn có trong thân thể con người chúng ta. Đây là lý do chính yếu tại sao ta xem thân người là vô cùng quý báu. Điều ta cần có, là một phương pháp thiện xảo để khơi dậy và xử dụng tài nguyên ấy, ngõ hầu đem lại hạnh phúc toàn vẹn không những cho chính ta, mà cho tất cả mọi người. Muốn thế, ta phải đoạn trừ thói quen nhìn những kinh nghiệm trong đời mình bằng một cái tâm khổ sở, với những dự phóng đau buồn. Ta phải công nhận rằng chính ta đã tạo ra mọi rắc rối. Không nên đổ thừa cho xã hội, cho cha mẹ hay bạn bè; không nên trách cứ bất kỳ ai. Những rắc rối của ta do chính tâm ta tự tạo. Nhưng cũng như ta đã sáng tạo tất cả rắc rối cho chính mình, ta cũng là kẻ sáng tạo ra giải thoát cho chính mình, và mọi thứ cần thiết để đạt đến giải thoát lạc này vốn đã được chứa đựng trong thân tâm ta hiện tại.

    HÒA NHẬP TUỆ VÀ LẠC

    Mục đích của sự hóa sinh thành một vị thần tiên nhờ pháp thiền quán ba thân Phật, cốt là để đánh tan ngã chấp ngột ngạt của ta. Chính quan niệm hẹp hòi này đã cản trở ta không kinh nghiệm được sự bùng vỡ của năng lượng phúc lạc tiềm tàng trong hệ thần kinh mình để nhờ đấy thực chứng tiềm năng giác ngộ.

    Trí tuệ về chân không là đầy hỉ lạc. Điều vô cùng quan trọng là hai yếu tố này -tuệ giác đi sâu vào thực chất mọi sự, và cảm giác đại lạc- phải được hợp nhất trong một kinh nghiệm. Ta có thể thấy nhiều người trẻ rất thông minh, nhưng họ vẫn cảm thọ được rất ít niềm vui trong cuộc sống, hoặc không có niềm vui nào cả. Trí thông minh chẳng những không làm họ sung sướng mà nhiều người trong số ấy lại hoàn toàn bị rối loạn. Họ có thể sáng chế đủ loại công trình như những trò chơi điện tử phức tạp, nhưng vì thiếu phương pháp để hòa nhập tri thức và cảm xúc của mình, nên họ vẫn là những người trí thức khô cằn, đầy bất mãn.

    Ngược lại có nhiều người có khả năng thực tiễn để được hạnh phúc, nhưng họ lại không có trí thông minh, không có sự tỉnh giác sắc bén để đi sâu vào một cái gì. Mặc dù hài lòng với cuộc sống, tâm thức họ vẫn cùn nhụt.

    Mật tông cố đào luyện trí tuệ lớn lao, đưa trí thông minh vào kinh nghiệm thực tiễn bằng cách đồng nhất nó với sự tỉnh táo đầy phúc lạc. Bằng cách đó ta có thể làm cho đời mình sung mãn, kiện toàn tiềm năng hạnh phúc mà vẫn tẩy trừ được mọi vấn đề rắc rối thường đi đôi với sự theo đuổi khoái lạc. Vì trên thế giới này, lạc thú thường đẻ ra vấn đề. Nhiều người cho rằng những nỗi khổ vật lý như đói và bệnh không thực sự là vấn đề trầm trọng lắm. Nhưng làm sao để hưởng khoái lạc mà không trở thành điên loạn hay đồi trụy, đấy mới là một vấn đề lớn chưa có giải pháp. Kinh nghiệm hòa nhập của mật tông cống hiến giải pháp ấy.

    Ta đã nhiều lần nói rằng theo mật tông, vấn đề căn bản của con người là khi có lạc thú, nội tâm ta thường đâm ra ngu độn, tối tăm. Điều này không có nghĩa rằng ta không nên hưởng lạc. Ta nên hưởng lạc, nhưng cần phải đề phòng đi quá trớn trong khi hưởng lạc. Ta phải giữ cho khỏi bị ảnh hưởng của vọng tưởng ngu si. Bởi thế lúc này ta đang học làm cách nào để có kinh nghiệm đại lạc, mà vẫn duy trì trạng thái sáng suốt, có kiểm soát. Ta đang học cách làm thế nào kinh nghiệm đại lạc có thể dẫn khởi tuệ giác sâu xa trong sáng.

    Thông thường chúng ta có thói muốn vơ về cho mình. Ngay cả khi thiền quán được thành công, cảm thọ được năng lượng kundalini đầy hỉ lạc đang lên, ta liền có một khuynh hướng mãnh liệt muốn vồ chụp lấy nó, nghĩ : "Đây là kinh nghiệm của tôi, tôi đã chứng." Đây là thói quen ta cần từ bỏ. Ta nên tập để cho những kinh nghiệm lạc nó xảy đến mà đừng bám víu xem là của tôi. Ta có thể làm được điều này bằng cách đồng nhất tâm với chân không, bất nhị. Khi ấy mỗi lúc lạc khởi lên, thì như thể là nó được kinh nghiệm ở đâu đó ngoài hư không. Thực khó mà diễn đạt điều này, nên tôi hy vọng quý vị sẽ hiểu những gì tôi muốn nói. Ta phải vượt ngoài thói quen chiếm hữu thông thường của mình, thói liên kết mọi sự vào ý thức hạn hẹp về bản ngã.

    Có lẽ tôi có thể giải thích điều này một cách sáng suốt hơn chút đỉnh. Hãy tưởng tượng trước mặt bạn là một người mà bạn cho là vô cùng hấp dẫn. Chỉ nhìn người ấy thôi cũng đủ khơi dậy một năng lượng lạc lớn nơi bạn. Bạn có thể muốn đưa tay ra mà ôm lấy người ấy. Bây giờ, hãy tưởng tượng người ấy thình lình tan thành ánh sáng cầu vồng, rạng rỡ và trong suốt. Tự nhiên tất cả cảm giác trĩu nặng của bạn về dục vọng chiếm hữu cũng tiêu tan. Thay vào đó, một cái gì nhẹ nhàng hơn, bồng bềnh hơn, sinh khởi. Bạn vẫn còn một vài tương quan với đối tượng đẹp đẽ ấy, nhưng tương quan ấy đã đổi thay. Bạn đã buông xả thái độ bám víu, và bây giờ kinh nghiệm một cái gì khoáng đạt hơn, bao la hơn. Đó là một kinh nghiệm hết sức nhẹ nhàng, phúc lạc mà vẫn hoàn toàn tỉnh thức, cái kinh nghiệm mà tôi muốn nói. Đó là những gì chúng ta cố đào luyện.

    Read more »
  • DẪN NHẬP TỐI THƯỢNG DU GIÀ

    DẪN NHẬP TỐI THƯỢNG DU GIÀ

    THÂN KIM CUƠNG VÀ TÂM THƯỜNG TRỤ

    Theo pháp du già cao nhất của mật tông, thì thân tâm chúng ta không chỉ hiện hữu trên bình diện thô như ta thường quen thuộc, mà còn trên những tầng mức vi tế mà phần đông chúng ta hoàn toàn không biết đến. Cái thân vật lý thông thường của chúng ta, làm bằng những yếu tố vật chất, thì phải chịu những đau khổ không thể tránh về bệnh, già và chết: nội một chuyện có cái thân này đã trói buộc ta vào những nỗi khổ không ngừng tái diễn của kiếp tồn sinh. Nhưng ở trong biên giới hay bầu khí của cái thân này, có một thân khác vô cùng vi tế hơn, gọi là thân kim cương, "kim cương" bao hàm ý nghĩa bất khả hoại. Cũng như hệ thần kinh lan khắp cái thân vật lý thô sơ khả hoại, thân kim cương vi tế cũng đầy những kinh mạch hay huyệt đạo (nadi) qua đó những luồng khí lực (prana) và giọt tinh chất (bindu) tuôn chảy. Đây là suối nguồn phúc lạc vô cùng quan trọng trong pháp hành trì cao cấp của mật tông.

    Cũng như chân tâm thanh tịnh và đầy phúc lạc, thân tâm lý vi tế bây giờ cũng đang hiện diện trong ta, và công việc của hành giả mật tông là khám phá để xử dụng nó. Một khi nhờ thiền quán ta bắt liên lạc được với cái thân tâm lý bằng ánh sáng này, thì thân vật lý thô trọng của ta không còn là một vấn đề đối với ta nữa, vì ta đã siêu việt nó. Những giới hạn vật lý chỉ là một triệu chứng khác của sự chấp thủ bản ngã. Khi đã hòa nhập với bản tính thanh tịnh của mình, thì mọi sự hạn chế ấy sẽ được vượt qua. Đến lúc ấy, sự chứng đắc cái thân sáng chói của vị thần không còn là một mục tiêu phải được quán tưởng, mà trở thành một thực tại.

    Ở đây không phải chỗ để bàn về kim cương thân với những huyệt đạo, tinh chất và khí của nó, song ít nhất nên nói qua về huỵệt đạo trung ương vì nó quan trọng đặc biệt. Luồng huyệt đạo này chạy một đường thẳng tắp từ đỉnh đầu xuống đến một vùng ở trước đáy cột sống của ta, dọc theo đó có bảy huyệt gọi là luân xa hay bánh xe năng lượng. Mỗi luân xa có một nhiệm vụ khác nhau trong pháp hành trì mật tông. Tùy loại mật điển ta đang tu, tùy giai đoạn tu tập, hoặc tùy đối tượng quán, mà ta xoay sự tập trung chú ý vào một luân xa đặc biệt. Vấn đề không phải là đoán mò nên chọn luân xa nào, những điều này được nói chi tiết trong các bản kinh luận mật tông, sẽ được vị thầy giải thích cho hành giả nào đủ tiêu chuẩn xứng đáng.

    Nhưng luân xa quan trọng nhất là luân xa nằm ở tim, vì đấy là chỗ trú của cái tâm rất vi tế của ta, kho tàng vô giá đối với tất cả hành giả mật tông. Từ khi nhập thai ta đã mang theo cái tâm rất vi tế này, nói đúng ra, từ vô thủy đời kiếp, dòng tương tục tâm cùng với luồng khí lực nâng đỡ nó vẫn theo ta không rời. Vì căn bản thức ở trung ương trái tim ta suốt đời này, nên cái tâm rất vi tế ấy đôi khi còn được gọi là tâm thường trú. Mặc dù tâm này đã tuôn chảy liên tục từ đời này sang đời khác, song nó hiếm khi có cơ hội để vận hành. Sở dĩ nó không khởi động được, không thi hành nhiệm vụ quý báu nhất của nó được- nghĩa là thâm nhập bản chất phổ quát (hay tính bất nhị- DG) của thực tại- là vì quá nhiều tâm trạng thô động của ta không ngừng sinh khởi. Những tâm thô này giống như những khách du lịch, những kẻ tham quan liên tục đến và đi, hoàn toàn tràn ngập, khỏa lấp cái tâm thường trú tĩnh lặng.

    Hoạt động của tất cả loại tâm thô cũng như tế, tùy thuộc vào những luồng khí lực nâng đỡ chúng, và tùy thuộc những luồng khí này đang du hành ở đâu. Khi chúng chảy qua bất cứ kinh mạch nào trong hàng ngàn kinh mạch, ngoại trừ huyệt đạo trung ương, thì những luồng khí ấy khởi động những tâm thô như du khách, luôn luôn làm phát sinh mê tín và rối ren, những kinh nghiệm trong đời sống phàm tình. Nhưng khi những khí lực này đi vào, an trú và tan vào trong huyệt đạo trung ương - như điều xảy ra vào lúc chết chẳng hạn - thì những tâm thô động kia lắng xuống, và cái tâm rất vi tế của ánh sáng thuần tịnh sẽ khởi lên.

    Khi những khí lực tan vào huyệt đạo trung ương, thì cái bối cảnh trong đó những tâm thô của ta thường vận hành tự động biến mất, sở du lịch đóng cửa và những ý tưởng mê tín của ta không còn có thể tiếp tục qua lại. Trong cái yên tĩnh theo sau đó, bản tâm nguyên ủy của ta - tâm thường trú - bừng dậy.

    Toàn thể tiến trình này tự động xảy ra trong lúc chết, nhưng rất ít người được huấn luyện để tận dụng cái tâm vi tế rất trong sáng này khởi lên vào thời điểm khẩn trương ấy. Sự thực là, ngay cả chuyện nhận ra được nó cũng khó có người. Nhưng những nam nữ hành giả mật tông thì tu luyện không những để nhận ra được tâm thức vi tế đầy phúc lạc này vào lúc chết, mà còn dùng thiền quán để có thể đánh thức cái tâm trong sáng ấy ngay trong khi sống, và nhờ vậy hoàn toàn làm chủ được nó. Nhờ đào luyện một định lực sâu xa, tập trung vào thân kim cương nói chung và huyệt đạo trung ương nói riêng, họ có thể cắt đứt những tầng lớp thô của sự vận hành tâm thức và tiếp xúc thẳng với bản tâm thanh tịnh. Họ có thể xử dụng cái tâm tập trung mãnh liệt này để thiền quán về tính không (hay vô tự tính) của mọi sự, thâm nhập bản chất tối hậu của thực tại và nhờ thế tự giải thoát mình ra khỏi mọi mê lầm vọng tưởng. Ngay lúc hoàn toàn thể nhập vào khoảng không trong sáng của bất nhị, họ cảm nghiệm được một sự bùng vỡ của năng lượng phúc lạc tràn trề khôn tả. Sự hợp nhất giữa kinh nghiệm đại lạc và chân không (mật tông gọi là mahamudra, đại ấn, hay biểu tượng vĩ đại) là con đường nhanh nhất đưa đến toàn giác.

     

    CHUYỂN LỐI NHÌN CỦA CHÚNG TA VỀ CÁI CHẾT

    Sự tan hòa luồng khí lực của kim cương thân vào huyệt đạo trung ương là việc thiết cốt đối với hành giả mật tông thượng thừa. Vì quá trình tan hòa này xảy ra một cách tự nhiên vào lúc chết, nên ta cần phải làm quen càng nhiều càng tốt với tiến trình chết ngay bây giờ.

    Thế mà phần đông chúng ta lại vô cùng miễn cưỡng khi quán xét cái chết, ta lại còn không muốn nghĩ đến nó. Ta kinh hoảng, và cho là toàn thể đề tài ấy thực khó ưa kinh khủng. Nhưng điều cốt tủy đối với ta là phải biết tâm mình vận hành thế nào không những trong ngày mà cả trong lúc ta ngủ và vào lúc chết. Muốn thế ta cần phải tự giáo dục mình về những vấn đề mà bấy nay ta vẫn thường né tránh. Nếu xét kỹ những vấn đề này, ta sẽ thấy cái chết không phải là một hố sâu đen ngòm kinh khủng đang chờ để cuốn hút chúng ta vào trong đó mà ngốn ngấu. Trái lại đấy là một nguồn an ủi tiềm tàng, và ngay cả hỉ lạc lớn lao.

    Ta thường nghĩ chết là tiêu cực, nhưng đấy chỉ là tưởng tượng. Kỳ thực chết có thể vô vàn tốt hơn những kinh nghiệm ta thường cho là lạc thú, vì những kinh nghiệm thường tình này không thể đem lại cho ta phúc lạc bình an tuyệt đối. Chẳng hạn một đóa hoa đẹp có thể cho ta một cái gì thực đấy, nhưng không phải là niềm bình an phúc lạc kỳ diệu mà sự chết có thể đem lại. Một người bạn trai hay bạn gái có thể đem lại cho ta một ít lạc thú, nhưng không thể giải quyết giùm ta bất cứ một vấn đề căn bản nào, bất quá họ chỉ tạm thời giải quyết được một vài vấn đề nông cạn thuộc cảm xúc của ta. Nhưng vào lúc chết, tất cả những vấn đề cảm xúc và tất cả lo âu của ta đều chấm dứt. Và tất cả những khái niệm đối nghịch đây kia tự động tan biến vào hư không, mở đường cho ta kinh nghiệm được tuệ giác sâu xa kỳ diệu. Bởi thế, điều ta cần nhận chân là, cái chết không phải một sự hủy diệt đột ngột kinh hoàng, mà là một tiến trình tuần tự trong đó tâm ta càng lúc càng trở nên vi tế nhỏ nhiệm. Nếu muốn thực hành mật tông thượng thừa, hay ít nhất, muốn chuẩn bị cho điều mà tất cả chúng ta cuối cùng đều phải chạm mặt, thì ngay bây giờ ta nên làm quen càng nhiều càng tốt với tiến trình tuần tự ấy. Nếu chờ tới lúc chết mới làm quen thì sẽ quá muộn.

    CHẾT, TRUNG ẤM VÀ TÁI SINH

    Giáo lý trong kinh điển và mật điển chẩn đoán những vấn đề của vòng sinh tử luân hồi theo nhiều cách, và cũng đưa ra những lối giải quyết khác nhau. Theo kinh điển, gốc rễ của khổ luân hồi là sự chấp thủ bản ngã, cái tà kiến bám giữ niềm tin có một "cái tôi" tự hữu biệt lập còn gọi là ngã kiến. Liều thuốc chữa trị quan niệm ngu si này là đào luyện một cái nhìn hoàn toàn ngược lại. Thay vì dại dột biểu đồng tình với niềm tin bản năng của ta vào sự tự tồn của bản ngã, kinh giáo dạy ta nên phát sinh một tri kiến về chân không, sự phủ nhận hoàn toàn tất cả những quan niệm về thực hữu độc lập của các pháp. Như vậy kinh giáo nhấn mạnh nhiều đến việc tẩy trừ tà kiến (thấy sai) và thay vào đó bằng chính kiến (thấy đúng).

    Con đường chớp nhoáng của mật tông không phủ nhận những gì kinh nói, nhưng lại đưa ra một phương pháp quyết liệt hơn để giải quyết những vấn đề của cuộc đời. Theo giáo lý cao cấp này, mọi khó khăn đều do không kiểm soát được những kinh nghiệm trong lúc chết và những gì xảy ra sau khi chết. Vì không kiểm soát được tiến trình chết, ta bắt buộc phải đi vào một trạng thái trung gian (bardo hay trung ấm thân) cũng không được kiểm soát, và từ đấy ta lại kinh quá một sự tái sinh không được kiểm soát, để lại đưa đến một sự sống chết không được kiểm soát khác nữa. Cứ thế bánh xe tiếp tục lăn, lôi chúng ta từ một hiện hữu bất toại ý này đến một hiện hữu bất toại ý khác.

    Cần nhấn mạnh lần nữa rằng cái chết tuyệt nhiên không phải là một vấn đề, mà là một cơ hội quý báu. Đối với người đã chuẩn bị tốt, thì tiến trình chết đem lại cơ hội ngàn năm một thuở để kinh nghiệm cái điều từ lâu họ luôn tìm kiếm, đó là tâm trong sáng đầy phúc lạc. Mặc dù tâm ấy tự động khởi lên khi chết, phần đông chúng ta không thể lợi dụng nó được chút nào. Cái chết của chúng ta, cũng như sự sống của chúng ta, trôi qua không được sự kiểm soát của cái tâm sáng suốt có ý thức, cho nên cái đáng lẽ là cửa ngõ giải thoát thì lại trở thành lối vào một đời sống mê muội khác.

    Cách chữa trị vô minh tái diễn ngoài tầm kiểm soát như thế là một loại thiền quán trong đó ta chuyển hóa những kinh nghiệm thông thường về chết, trung ấm và tái sinh thành ra kinh nghiệm giác ngộ của một vị Phật. Phương pháp của Mật tông bởi thế không tương phản với vấn đề - như trí tuệ Tính không tương phản với vô minh chấp ngã - mà tương tự với vấn đề. Vì thuốc giống bệnh, nên những năng lực thường đưa đến rối ren đau khổ có thể được xử dụng để đem lại ánh sáng và thành tựu bản thân. Đây là một trong những lý do khiến mật tông là một pháp tu thần tốc, nhưng nếu hành sai thì lại là một con đường nguy hiểm.

    BA KHÍA CẠNH CỦA PHẬT QUẢ

    Để hiểu cách mật tông xử lý các vấn đề chết, trung ấm và tái sinh như thế nào, ta cần biết qua ý nghĩa ba thân Phật. Khi tất cả những tấm màn vô minh che lấp tâm ta đã được cởi bỏ, khi tất cả tiềm năng tốt đẹp trong ta đã được phát triển đến cùng, thì có sự thành tựu đồng thời ba thân Phật là pháp thân, báo thân và ứng hóa thân. Pháp thân là tâm vô hạn, vô chướng ngại của một đấng giác ngộ, còn hai thân kia là hai tầng mức biểu hiện của pháp thân ấy để lợi lạc cho người khác. Pháp thân được xem là thân tự thọ dụng, biểu trưng sự thành đạt cho mình nhờ chứng đắc các thần thông, còn báo ứng thân là thân tha thọ dụng - biểu trưng sự thành đạt cho người, do hóa thân của một vị Phật để đem lại lợi ích cho chúng sinh chưa giác ngộ.

    Sự chứng đắc ba thân là kinh nghiệm của toàn giác. Vì chưa giác ngộ chúng ta chưa có được kinh nghiệm này, nhưng ta có thể có cái gì tương tự với nó. Không những ta có thể có ba thân, mà theo con đường quả thừa của mật tông, ta nên có ngay ba thân ấy! Một thái độ tham lam như thế rất hợp thời trang; người ngày nay muốn "được cái tốt nhất, và được liền tức thì !" Chỉ khác là thường ta theo đuổi vật chất, còn khi hành mật tông, ta cố đem kinh nghiệm hỉ lạc của ý thức thắp sáng mọi khía cạnh đời sống, để đưa vào thực chứng.

    TẬN DỤNG THÂN NGƯỜI

    Chuyển kinh nghiệm chết, trung ấm và tái sinh thành con đường giác ngộ không phải là chuyện huyền hoặc. Nhờ cái thân hiện tại mà ta có thể hoàn thành được mục đích lớn lao này. Theo Kinh giáo, thân xác vật lý của ta là một chướng ngại. Nó đang tàn tạ từng sát na, dễ đau ốm và lôi cuốn khổ như nam châm hút sắt. Quả vậy, diệu đế đầu tiên được định nghĩa ngắn gọn như sau: Khổ chính là thân này. Nhưng theo cái nhìn mật giáo thì ngược lại. Hoàn toàn không phải chướng ngại, thân người được xem như báu vật quý nhất vì nó chứa đựng tất cả sự trang bị cần thiết cho việc đạt giác ngộ ngay trong một đời người. Thân này làm bằng bốn đại đất nước lửa gió và những năng lượng (khí, prana) liên hệ. Và vì nó sinh từ bào thai, nên có chứa những tinh chất đỏ và trắng hấp thụ của cha mẹ; đây là yếu tố cần thiết để khơi dậy năng lượng phúc lạc của kinh nghiệm kundalini.

    Chúng ta thật may phước có được loại thân này, bởi thế không nên phí phạm cơ hội quý báu nó đem lại để thực hiện tiềm năng toàn vẹn của ta. Đừng như những người không biết xử dụng tài nguyên thiên nhiên của mình cho đúng cách. Chẳng hạn tôi nghe nói những trại chủ ở Nepal chặt hết những cây xoài để làm củi. Một cây xoài cần biết bao nhiêu năm để lớn và sinh quả ngon ngọt, thế mà người Nepal dường như không biết thưởng thức. Thay vì tận dụng những gì mình có, họ lại chặt phá hết những cây quý nên đất bị xoáy mòn, rốt cuộc không còn gì cả. Nếu không xử dụng năng lượng quý báu của thân mình để đạt giác ngộ, mà lãng phí nó vào những theo đuổi vô nghĩa của đời này, thì ta lại còn ngu ngốc hơn các trại chủ kia. Ta nên làm như những khoa học gia biết rút năng lượng từ mọi thứ - ánh sáng mặt trời, thủy triều, gió v.v..- và lại còn biết cách xử dụng năng lượng này cho những mục tiêu xây dựng. Nói cách khác, ta phải thiện xảo, và sự thiện xảo cao nhất là chuyển cái thân hiện tại của ta, vốn là gốc khổ, thành một con đường hỉ lạc đưa đến hạnh phúc vô biên cho mình và người. Đây là mục đích tối hậu của mọi phương pháp mật tông.

    TIẾN TRÌNH CHẾT

    Khi đạt toàn giác, ba thân phật (Pháp thân, báo thân, ứng thân) đồng thời thành tựu. Nhưng theo pháp hành mật tông, ba thân ấy tuần tự hình thành theo một tiến trình mô phỏng tiến trình tự nhiên diễn ra lúc chết, lúc ở trạng thái trung ấm và lúc tái sinh. Bởi vậy như đã nói, trước hết ta cần biết tiến trình ấy thường xẩy ra như thế nào, rồi mới có thể hiểu cách chuyển ba giai đoạn ấy thành ba thân giác ngộ.

    Chết là tâm tách lìa khỏi xác. Quá trình tách lìa có thể xảy ra nhiều giờ, nhiều ngày, như cái chết tự nhiên do già bệnh; hoặc xảy đến đột ngột như do tử nạn. Nhưng ở cả hai trường hợp, cái chết đều có những bước tiến nhất định. Thân xác không phải đột ngột mất ngay khả năng duy trì tâm thức, mà nó mất từ từ, mỗi đại trong 4 đại (địa, thủy, hỏa, phong) tuần tự mất khả năng nâng đỡ thân xác.

    Kinh điển mật tông mô tả 4 giai đoạn đầu của sự chết bằng những từ ngữ sống động. Trước hết địa đại chìm hay tan vào thủy đại, rồi thủy đại tan vào hỏa đại, hỏa đại tan vào phong đại, phong đại tan vào thức đại. Một sự mô tả như thế giúp ích cho thiền quán, nhưng ta không nên hiểu theo danh từ. Ví dụ nói địa đại "chìm" vào thủy đại có nghĩa là những phần rắn chắc của cơ thể dần dần mất khả năng vận hành của chúng, không còn liên lạc mật thiết với tâm thức người chết như trước; trong khi ấy thủy đại (hay chất lỏng) có vẻ thắng thế và rõ rệt hơn.

    Khi những yếu tố vật lý nói trên tuần tự thắng lướt nhau như vậy, thì người sắp chết cảm nghiệm một vài dấu hiệu hay triệu chứng bên ngoài (trên cơ thể) và bên trong (tâm lý) liên hệ đến từng giai đoạn của tiến trình tan rã. Những triệu chứng này được nói rõ trong nhiều sách, nên ở đây miễn bàn. Tuy nhiên cũng sẽ ích lợi để nêu vài hình ảnh điển hình thường xảy đến.

    Khi chết, thường người ta mất hết sự tự chủ. Vì đã không tu tập khi còn sống, họ bị cái chết tràn ngập, họ choáng váng khi các "đại" hay yếu tố của thân xác bị mất quân bình, không còn hoạt động điều hòa nữa. Họ cảm như đang bị nạn động đất dữ dội, không thể giữ bình tĩnh trước những gì xảy đến. Cái chết diễn ra với họ như một loạt ảo tượng kinh hoàng, một cơn ác mộng tàn phá. Nhưng với một người đã chuẩn bị, thì chính những cảnh gợi khủng khiếp ấy có thể đem lại niềm bình an kỳ diệu. Và với những hành giả thượng thừa, những người đã luyện tâm thuần thục, thì mỗi giai đoạn của tiến trình tan rã đem lại cho họ một sự sáng suốt và tuệ giác càng lúc càng tăng.

    Theo tâm lý học Phật giáo, một đối tượng có đem lại sự thỏa ý hay không, tùy thuộc vào quyết định mà tâm ta đã có từ trước. Trước khi trông thấy một điều gì hay một vật gì, tâm bạn đã quyết định : "Điều này sẽ làm cho tôi sung sướng." Rồi khi thực sự tiếp xúc với vật ấy bằng mắt, bạn mới nghĩ : "Ồ, thật tuyệt !" Đối với một phản ứng xấu cũng vậy. Nếu tâm bạn đã có thành kiến hay quyết định bạn không thích người nào, thì khi thực sự gặp người ấy bạn chỉ thấy họ khó ưa. Nói cách khác, tất cả mọi sự có vẻ tốt, làm ta ưa, và có vẻ xấu làm ta ghét, kỳ thực chỉ là những tạo tác của chính tâm ta.

    Tất cả điều này dính dấp gì đến kinh nghiệm chết chóc của chúng ta ? Đạo phật dạy rằng cái cách để trải qua một đời sống hạnh phúc và một cái chết hạnh phúc, là hãy nhận chân sự việc xảy ra một cách như thật, không bị đánh lạc hướng, làm cho tâm rối bời vì những tướng bên ngoài. Trong đời chúng ta gặp hết nỗi bất mãn này đến bất mãn khác, chỉ vì ta lầm tin rằng cái gì ta thấy tốt là thực sự tốt, cái gì ta cho xấu là thực sự xấu; do vậy ta dành trọn cuộc đời và năng lực của mình để chạy theo cái này, tránh xa cái nọ. Vì suốt đời ta đã tích lũy một thói quen mạnh mẽ nhìn mọi sự việc bằng thái độ hoặc tham đắm hoặc sợ hãi như thế, nên vào lúc chết, khi mọi sự dường như tan tành theo mây khói, đương nhiên tâm ta sẽ rơi vào một trạng thái hỗn loạn tơi bời.

    Giải pháp là, cần phải tập nhìn mọi sự chỉ là do tâm ta biến hiện, không có một chút xíu nào hiện hữu biệt lập. Ta cần hiểu, vì do tâm biến ra nên mọi sự chỉ như huyễn ảo. Tri kiến ấy cũng phải được áp dụng khi ta thấy những cảnh tượng lũ lượt hiện ra vào lúc tâm ta trải qua tiến trình chết. Ta nên làm quen với những gì ta sẽ gặp vào lúc chết, để có thể đối phó với những ảo cảnh này thay vì bị chúng tràn ngập và làm cho tâm ta hoảng hốt rối ren. Then chốt của vấn đề, lúc sống cũng như lúc chết, chính là nhận rõ ảo tưởng là ảo tưởng, tưởng tượng là tưởng tượng, huyễn hóa là huyễn hóa. Với cách ấy ta sẽ được giải thoát.

    CHẾT VÀ PHÁP THÂN

    Trước hết ta hãy xét những gì xảy đến nếu ta phải chết trong một tâm trạng lo lắng kinh hoàng tột độ, lúc ta không chuẩn bị, và cũng chưa từng tu tập. Khi bám víu vào cái "tôi" mà ta tưởng là vững chắc, để được an ninh bảo đảm, thì ta sẽ kinh hoàng khi thân xác nền tảng của cái "tôi" ấy, khởi sự phân tán. Khi địa đại suy thoái, thủy đại thắng lướt, tâm ta đầy những ảo tượng lung linh màu xanh bạc. Ta cảm như bị vướng bẫy, bị ngột ngạt, thân xác bị chôn dưới đất hay bị vùi lấp dưới cơn đá lở. Rồi khi thủy đại tan vào hỏa đại, ảo tượng khói xuất hiện. Khi điều này xảy đến, ta thấy như bị chết đuối, bị nước lũ cuốn trôi. Kế tiếp, hỏa đại tan rã, thân xác ta dần giá lạnh; ta thấy ảo tượng là một đống lửa giữa trời đêm với những tia lửa nhảy múa. Trong lúc tiến trình này xảy đến, nhiều người sắp chết gào lên vì tưởng thân mình đang bị những ngọn lửa thiêu rụi. Cuối cùng khi phong đại phân tán, hơi thở hào hển, ta cảm thấy mình bị thổi tung như lá vàng trước cơn gió lốc. Đồng thời, tâm ta "thấy" một ngọn lửa loé sáng lên rồi tắt như ở trong một phòng tối mịt; cũng như khi ngọn nến sắp tắt, bỗng sáng rực lên đột ngột như thể bùng vỡ đợt năng lượng cuối cùng. Hơi thở ta đang dồn dập hào hển, bỗng ngừng hẳn lại. Đối với mọi người, lúc ấy dường như ta đã chết (và đây là triệu chứng làm cho những người thân tụ họp xung quanh khởi sự khóc òa).

    Nhưng ta chưa chết hẳn. Bốn đại thô phù và những tâm phân biệt tương ưng với chúng đã ngưng hoạt động, nhưng tầng tâm thức vi tế vẫn còn vận hành bên trong. Điều này xảy đến khi giọt vi tế trắng hấp thụ của cha vào lúc nhập thai và trụ ở đỉnh đầu ta lúc sống, cùng giọt đỏ nhận của mẹ nằm ở rốn, tiến về gặp nhau ở tim. Khi giọt trắng đi xuống, hình ảnh trong tâm ta là không gian trống rỗng trắng xóa; khi giọt đỏ đi lên, ta thấy khống gian màu đỏ. Khi cuối cùng 2 giọt gặp nhau làm nên một hình cầu bao bọc căn bản thức vô cùng vi tế cùng với luồng khí tương ứng ở tim; thì ta kinh quá màu đen của một căn phòng tối mịt. Màu đen này càng lúc càng đậm đặc cho đến khi cuối cùng ta rơi vào trạng thái hoàn toàn bất tỉnh.

    Nhưng ta cũng vẫn chưa chết. Trong hình cầu giữa trái tim, an trú cái bản tâm rất vi tế của ta và khí lực vi tế tương ứng. Sau một thời gian - có thể 3 ngày hay hơn, với người không tu luyện - trái cầu này mở ra, và tâm thức ta được soi sáng. Cái bản tâm rất vi tế bừng tỉnh dậy và nó chỉ thấy một không gian trống rỗng, trong suốt và sáng ngời. Tâm trong sáng này là tâm cuối cùng và vi tế nhất trong những loại tâm mà ta kinh nghiệm trong suốt cuộc đời này.

    Đối với một người phàm, tất cả những kinh nghiệm này - từ khi ảo tưởng hiện ra cho đến khi xuất hiện ánh sáng trong suốt - đều không được kiểm soát, chúng lần lượt xảy đến song chúng ta hoàn toàn không biết, vì tâm ta quá tán loạn rối ren. Nhưng những người đã khéo tu luyện từ trước thì giữ được ý thức sáng suốt về mọi sự xảy đến trong suốt tiến trình này. Họ biết ảo ảnh nào sắp diễn ra kế tiếp, và hiểu rằng mọi cảnh tượng chỉ là tướng trạng diễn ra trước cái tâm đang chết của mình, chúng hoàn toàn không có thực tính khách quan ngoài tâm. Vì hiểu như vậy, họ không bị kinh hãi bởi những điều trông thấy. Thay vì thế, khi tâm họ càng trở nên vi tế thì họ càng ý thức về tính phi thực một cách sâu xa. Cuối cùng, khi ánh sáng trong suốt khởi lên, thì cái tâm vô cùng vi tế hòa nhập với Tính không trong một kinh nghiệm phúc lạc tràn trề khôn tả. Đối với một người như vậy, cái chết đã trở thành cơ hội quý báu để kiện toàn trí bất nhị. Nhờ trí giác trong suốt vô chướng ngại này mà một hành giả khéo tu luyện chuyển hóa được tiến trình chết thông thường thành ra kinh nghiệm của pháp thân giác ngộ.

    Kinh nghiệm pháp thân về tính bất nhị này vượt ngoài ngôn từ khái niệm mô tả. Bởi thế, khi người nào nói về kinh nghiệm này, họ luôn dễ bị hiểu lầm. Vậy bạn không nên tin lời tôi nói, đấy chỉ là những vọng ngôn do sự mê tín của tôi thôi. Dù nói khéo đến đâu, ngôn từ cũng chỉ phát xuất từ cái tâm phân biệt có giới hạn, và cũng chỉ được thấu hiểu bằng cái tâm hạn cuộc. Điều cần thiết là phải tiếp xúc được với chính kinh nghiệm, vượt ngoài danh ngôn dùng để diễn đạt kinh nghiệm ấy. Đó là lý do khiến mật tông đặt nặng hành động hơn lý thuyết.

    Mặc dù cũng nên nghiên cứu kinh luận và phân tích phê phán, song có những lúc phương pháp phân tích chỉ có hại. Một bậc thầy về thiền quán có lần bảo tôi :"Vào một lúc nào đó, ông cần phải từ bỏ lối hiểu mọi sự theo kiểu triết lý. Ông phải vượt ngoài tranh biện, luận lý." Điều ấy làm tôi kinh ngạc. Hồi đó tôi còn là một sinh viên trẻ, hăng hái, thích phân tích phê phán mọi sự mà tôi nghe được. Nhưng cuối cùng tôi hiểu ngài muốn nói gì : nếu cứ vướng vào thành kiến tri thức, ta không thể đi vào những kinh nghiệm thiền quán sâu xa. Vậy thực quan trọng để biết lúc nào nên buông xả, thư dãn để cho tâm an trú trong trạng thái trong sáng tự nhiên của nó.

    Những bậc chân sư thuộc mọi truyền thống luôn nhấn mạnh rằng có những lúc bạn không nên làm một hoạt động tri thức phân tích nào cả. Ví dụ, sẽ là một lỗi lầm lớn nếu vướng vào ý tưởng phân tích trong khi bước vào giai đoạn tu tập cao cấp của giai đoạn "Thành tựu", là giai đoạn tối thượng du già ( sẽ bàn sau). Tại vì khi xử dụng tri thức thì tự nhiên đủ mọi thứ quan niệm mê tín sẽ khởi lên. Tâm bạn trở nên quá bận bịu và rung động theo năng lượng cục bộ của những khái niệm ấy. Rồi vì mỗi trạng thái tâm đều tương ưng với khí lực của nó, nên hệ thần kinh vi tế của bạn cũng rung động vì những luồng khí lực chống nhau. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến công việc của bạn - kiểm soát hệ thần kinh trong pháp hành ở giai đoạn Thành tựu - mà còn có thể dẫn đến một tình trạng đau đớn mà người Tây tạng gọi là "lung" nghĩa là năng lượng bị ứ nghẽn ở tim. Như với mọi giai đoạn của con đường tu tập, có lúc ta phải xử dụng tri thức, mà cũng có một lúc phải gạt tri thức qua một bên.

    TRẠNG THÁI BARDO VÀ BÁO THÂN

    Với người phàm tục, khi ánh sáng trong suốt chấm dứt, tâm họ kinh quá những ảo cảnh của kinh nghiệm pháp thân vừa mô tả, nhưng theo trật tự ngược lại, từ bóng tối vô thức đến diễn biến của ảo tượng. Khi tiến trình lộn ngược này bắt đầu, tâm ta lìa khỏi xác và cái chết mới thực sự xảy ra. Liền sau đó chúng ta đi vào trạng thái trung gian gọi là bardo, thân trung ấm, và ở đây cũng thế, tâm ta hoàn toàn ở ngoài tầm kiểm soát. Với tốc độ đi nhanh của tâm ý, ta bị đẩy từ cảnh này sang cảnh khác, như trong một giấc mộng. Nhưng mộng này thường là ác mộng. Khi thì do dấu ấn của ác nghiệp và vọng tưởng của ta trong quá khứ, những cảnh tượng kinh hoàng hiện ra làm cho ta cuống cuồng trốn chạy. Khi thì những hình ảnh quyến rũ khởi lên làm cho ta khát khao nồng nhiệt chỉ để thất vọng ê chề. Chung quy đấy là những gì đã từng xảy đến lúc ta còn sống và sở hữu một thân xác vật lý phàm tình: cuộc đời ta luôn luôn đi tìm an ổn, chạy trốn cái này, chạy theo cái khác. Nhưng bây giờ ta lâm vào trạng huống càng kinh khủng hơn. Vì cái thân trung ấm vô hình của ta chỉ làm bằng luồng khí lực vi tế nên nó có thể xuyên qua vật chất không bị chướng ngại, do vậy ta nhanh chóng nhập vào bất cứ trạng huống nào mà cái tâm sợ hãi tham đắm ném ta đến.

    Đấy là kinh nghiệm thân trung ấm thông thường, nhưng ở đây cũng vậy, với hành giả có tu luyện, họ có thể chuyển kinh nghiệm ấy thành con đường đưa đến giác ngộ. Vì đã thuần thục trong pháp quán "thân huyễn như ráng cầu vồng", nên khi ánh sáng trong suốt của sự chết vừa tắt, hành giả liền mang một thân trong suốt bằng quang sắc [ánh sáng do tâm tạo] thay vì cái thân trung ấm mê muội. Với cách ấy, họ chuyển hóa kinh nghiệm trung ấm phàm tình thành kinh nghiệm báo thân giác ngộ, hay thân phúc lạc.

    TÁI SINH VÀ THÂN ỨNG HÓA

    Hệt như tiến trình chết và trạng thái trung ấm đều bị thúc bách bởi năng lực vô minh chấp thủ, sự tái sinh của ta cũng vậy, ta không chủ động được. Cuối cùng ta bị những ngọn gió nghiệp thổi giạt đến nơi mà cha mẹ tương lai của mình đang giao hợp. Vừa ham muốn lại vừa ghê tởm, ta ngất xỉu và liền nhập vào thai mẹ. Từ khởi điểm bất tịnh ấy, một đời sống ô nhiễm đau khổ tiếp theo. Cái thân phối hợp từ tinh cha huyết mẹ phải chịu khổ sinh già bệnh chết, trong khi tâm ta tiếp tục dòng thức tâm đời trước, do tham sân si thúc đẩy, cứ tiếp tục tạo thêm nhân tố khổ đau và bất mãn.

    Một hành giả tu cao có thể chuyển hóa kinh nghiệm tái sinh này, như đã chuyển hóa cái chết và trạng thái trung ấm. Thay vì bị hôn mê, bị chuyển từ trung ấm đến tái sinh do nỗi bám víu sợ hãi thúc bách, hành giả mật tông thiện xảo có thể chọn tái sinh một cách đầy ý thức. Nhờ đã tu luyện để vượt qua các tướng phàm tình, họ có thể xem cha mẹ tương lai như thần nam thần nữ, và chính mình cũng là một vị thần con. Tùy theo mức độ làm chủ và loại pháp mà họ tu luyện, họ còn có thể tái sinh vào một tịnh cảnh, cảnh giới trong đó mọi sự đều giúp cho việc chứng đắc giác ngộ. Ngay dù sinh vào địa cầu này, họ cũng có thể chọn hoàn cảnh thích hợp để tiếp tục tu hành cho đến khi đạt toàn giác. Với tâm hoàn toàn tỉnh giác, được kiểm soát, thì tái sinh thông thường có thể được chuyển hóa thành kinh nghiệm giác ngộ của thân ứng hóa, 1 trong 3 thân Phật.

    Trên đây chỉ là mô tả ngắn gọn cách những hành giả mật tông chuyển hóa cái chết, trạng thái trung ấm và tái sinh thành ra ba thân của giác ngộ, nhưng cũng đủ cho ta một ý niệm rõ ràng về những gì nằm trong tầm của pháp hành trì mật tông tối thượng. Từ trước đến nay chúng ta đã bị tràn ngập bởi những năng lực vô minh, nghiệp và vọng tưởng mà hậu quả là ta phải luân chuyển mãi hoài trong vòng sinh, chết rồi tái sinh không được chọn lựa, không được kiểm soát. Khi ta chưa thay thế vô minh bằng trí tuệ để chuyển hóa ba sự cố tái diễn không ngừng này thành kinh nghiệm giác ngộ của một vị phật, thì ta vẫn phải tiếp tục xoay vần trong vòng lẩn quẩn ấy mãi mãi, đi tìm hạnh phúc mà chỉ có rước lấy tuyệt vọng khổ đau.

    CẮT ĐỨT TÁI SINH

    Không khó gì để hiểu rằng sự chết, trạng thái trung ấm và tái sinh là những kinh nghiệm đau đớn, căn nguyên mọi rắc rối của chúng ta. Vì sống, chết rồi tái sinh bằng một thân tâm không được kiểm soát, nên ta phải trải qua nhiều nỗi khổ vật lý và tâm lý trong đời sống thường ngày. Nói đơn giản, nếu trước hết ta đừng sinh ra đời, thì đâu có những rắc rối ấy ! Nhờ thực hành pháp mật tông thượng thừa, chúng ta có thể hoàn toàn tránh được sự sinh ra kiểu đó, cùng với tất cả mọi vấn đề do nó gây nên.

    Nhiều người đâm ra thắc mắc khi nghe nói tu mật tông có thể cắt đứt tái sinh. Họ nghĩ : "Điều ấy có nghĩa lý gì ? Tại sao tôi phải từ bỏ cơ hội trở lại trần gian này? Có phải con đường tu tập ấy đưa tới chỗ hoàn toàn hủy diệt? Nếu thế thì tôi chả cần."

    Để khỏi thắc mắc, ta nên nhận chân rằng "cắt đứt luân hồi" có một ý nghĩa đặc biệt là giải thoát khỏi sự tái sinh không được kiểm soát. Ta có thể tu mật tông một cách thành công, mà vẫn trở lại cuộc đời này. Quả thật, với bồ đề tâm đầy bi mẫn, ta không thể nghĩ đến chuyện bỏ mặc mọi người. Bồ đề tâm giục ta phải trở lại để làm lợi ích cho họ. Chính đức Thích Ca Mâu Ni đã làm thế, cho nên sự sinh ra của ngài tuyệt nhiên không là vấn đề, mà lại là một nguồn lợi lạc vô biên. Trong khi đó, sự tái sinh của chúng ta lại xảy ra ngoài kiểm soát của mình, và chỉ có làm cho chu kỳ khổ đau tiếp tục mãi mãi. Chính chu kỳ đau khổ này mới cần cắt đứt. Về sự chết và thân trung ấm cũng vậy; chính cái kinh nghiệm không được kiểm soát về những tiến trình này mới cần trừ khử, cần chuyển hóa.

    Cuộc đời không tự chủ của ta, bị tham sân si làm chủ, đương nhiên đưa đến cái chết không được kiểm soát. Trong tiến trình mê muội này, cũng những vọng tưởng tham sân ấy làm phát sinh những hỗn mang rắc rối lớn hơn. Tâm ta bị tràn ngập bởi những ảo cảnh liên hệ đến sự tan rã của từng yếu tố thân xác, và ta đi vào trạng thái trung ấm với nỗi hãi hùng, khát khao kinh khủng. Tại đấy, vì ta có một "thân do ý sinh" chứ không phải thân vật lý, nên những mê tín của ta càng có một ảnh hưởng lớn đối với ta hơn nữa. Cứ mỗi vọng tưởng nổi lên trong tâm là ta liền bị ném ngay vào hoàn cảnh mê vọng tương ứng. Điều này thật kinh hoàng, và khi cuối cùng ta thấy hình ảnh cha mẹ tương lai, thì khát vọng được an ổn thúc đẩy ta nhập thai để tái sinh, và thế là chu kỳ đau khổ bắt đầu trở lại. Ta không tìm được ở đâu một chốn an nghỉ thanh bình. Niềm an lạc hạnh phúc mà ta ao ước luôn luôn tuột khỏi tầm tay. Đây là triệu chứng của cuộc tồn sinh trong cõi luân hồi sinh tử .

    Mục đích hành trì mật tông là giải thoát ta khỏi những rắc rối không ngừng tái diễn ấy bằng cách giúp ta rứt ra khỏi vòng lẩn quẩn. Nhờ luyện tâm vượt qua sự khống chế của các giả tướng mê muội thông thường, và nhờ chuẩn bị trước những gì mà cuối cùng ta sẽ phải gặp khi đời sống này kết thúc đời khác bắt đầu, ta có thể kinh nghiệm ba thân tỉnh giác thay vào ba trạng thái mê muội thường tình về chết, trung ấm và tái sinh.

    Read more »
  • MẬT TÔNG TỐI THƯỢNG DU GÌA

    MẬT TÔNG TỐI THƯỢNG DU GÌA

    Trí Hòa sưu tập

    Lời đầu

    Trước khi nghe pháp hay học giáo lý, nên dùng tâm thanh tịnh khởi lòng bồ đề,

    rộng mở tâm từ bi làm động cơ học đạo để tịnh hóa tâm thức.

    ***

    Muốn bước vào Mật Tông Đại thừa, hành giả trước tiên cần phải thực hành điều

    thứ nhất ( bắt buộc ):

    --- Thuần hóa tâm theo con đường chung ( common path hay Lamrim ), gồm có:

    a)

    Qui y Tam Bảo:

    là cánh cửa dẫn vào Phật pháp,

    b)

    Phát tâm Bồ Đề:

    là cánh cửa dẫn vào Đại thừa,

    c) Hiểu rõ về Tánh Không,

    Ba điều này dùng làm nền tảng để bước vào Mật pháp Đại thừa. Nếu không,

    người tu sẽ dấn thân vào con đường sai lạc, như nấu cát mong thành cơm, vắt sừng bò

    mong được sữa.

    Dàn bài

    Bài này chia làm năm điểm:

    1)

    Nét đặc thù giữa Phật giáo so với các Tôn giáo ngoài Phật giáo ( non-

    Buddhism )

    2)

    Nét đặc biệt giữa Phật giáo Nguyên thủy ( Theravada )và Đại thừa Phật

    giáo (Hinayana ).

    3)

    Đặc điểm khác nhau giữa Đại thừa Hiển tông ( Paramitayana )và Đại thừa

    Mật tông ( Vajrayana ).

    4)

    Sự khác biệt giữa Đại thừa Mật tông ( Vajrayana ) và Mật Tông Tối Thượng

    Du Gìa ( Anuttarayogatantra ).

    5)

    Đại thừa Mật tông và Kalachakra.

    Mật Tông Tối Thượng Du Gìa lại chia ra : Bổn Tôn Du Gìa ( Deity yoga ),

    Hevajra, Vapabhairava, Chalarasamvara, và Kalachakra.

    Phần Chánh

    1)

    Đặc Điểm của Phật Giáo

    Phật giáo có gì đặc biệt khác với các Tôn giáo khác?

    Chắc chắn có người nghỉ Phật giáo có nhiều nghi lễ hơn, nhiều cách cúng dường

    hơn ....vv... Những việc này chưa hẳn là Chánh pháp.

    Vì tâm nguyện cầu giải thoát khỏi luân hồi sanh tử mà người con Phật tìm về Qui

    y nơi Tam Bảo. Phật Pháp Tăng là đối tượng của tâm qui y, nơi có đủ khả năng đưa

    người con Phật đến bờ giải thoát, tránh khỏi mọi đau khổ và nhân đau khổ cho tương lai,

    mãi mãi về sau. Tất cả mọi khổ đau đều phát xuất từ nghiệp chướng phiền não tích lũy

    trong dòng tâm thức. Vì nhân tích tụ nên quả khổ đau phải trả trong cuộc sống.

    Qui y Tam Bảo là quay về nương gởi nơi Phật Pháp Tăng, nhờ đó có thể thoát

    được nghiệp chướng, đạt kết quả rốt ráo là giải thoát mọi khổ đau và nguyên nhân đau

    khổ, là động cơ tu hành chánh của người con Phật hàng sơ cơ.

    Ví như có người vì phạm nhiều ác nghiệp lâu đời nhiều kiếp, mà nay lại tha hồ để

    tâm tham giận si mê chạy theo ý muốn thì chắc chắn sẽ chịu quả khổ. Thì nay mỗi khi

    tâm không tốt nổi lên, nếu có phương pháp để áp dụng hóa giải, ác báo sẽ từ từ giảm

    bớt, tâm dần dần tịnh hóa, có khuynh hướng tạo nghiệp lành, nghiệp lành càng tụ,

    nghiệp dữ càng tiêu. Đến một lúc nào đó sẽ tận diệt khổ đau, thoát khỏi luân hồi.

    Muốn thoát khỏi khổ, giải thoát luân hồi, không cần phải bỏ nơi này dến một nơi

    đặc biệt nào khác, mà khổ đau có thể diệt tận ngay trong thân tâm này, giải thoát có thể

    đạt ngay trong đời này. Thân tứ đại này vốn có sẳn tiềm năng thành tựu nguồn hạnh

    phúc tối thượng. Chỉ cần ta chọn đúng con đường, đúng phương pháp, hợp căn cơ, rồi ra

    công nổ lực tu trì. Như vậy là, đạo Phật là con đường đưa chúng sanh tới bờ giải thoát

    giác ngộ.

    Con đường giải thoát này không có trong các Tôn giáo khác. Các Tôn giáo khác

    có thể dạy nhiều phương pháp nhập định sâu, có thần thông, bay lên mây hay độn thổ,

    xuất hồn du ngoạn, nhưng không dạy cách tu giải thoát khổ đau, tránh gây nhân ác. Đây

    là phần cốt tủy của Phật giáo, mức độ cao quí tuyệt diệu của đạo Phật. Nó không nằm ở

    chỗ nghẻo thì cầu Phật độ cho giàu, bệnh thì cầu cho khỏi, ế hàng thì cầu cho mua may

    bán đắt.

    2)

    Đặc Điểm của Đại Thừa

    Sự khác biệt giữa Bồ Tát Thừa và Thanh Văn Thừa.

    Tại sao Đại Thừa lại thâm diệu hơn?

    Thanh Văn thừa là cổ xe nhỏ, đáp ứng một số nhỏ nhu cầu , chưa phải là thành tựu

    cao nhất.Muốn thành tựu rốt ráo con đường Phật dạy, triệt bỏ toàn diện phiền não nhiễm

    ô, đạt chức năng bồ đề, cần phải hành theo con đường Đại thừa, phương pháp dành cho

    Bồ Tát đạo.

    Trong Phật giáo không có phân chia giáo pháp tốt xấu, pháp này hòan hảo hơn

    pháp kia. Giáo pháp nào thích hợp với căn cơ người tu là giáo pháp hòan hảo.

    Khi mới Thành Đạo, vì quan sát căn cơ chúng sanh nên Đức Phật ba lần chuyển

    pháp, từ Tứ Diệu Đế, làm căn bản cho con đường giác ngộ. Lên cao hơn, Phật dạy phát

    lòng từ bi và tâm bồ đề cho các vị Bồ tát, lãnh trách nhiệm mang lợi ích đến cho chúng

    sanh và thành tựu vô thượng bồ đề. Quả vị cao nhất trong Thanh văn thừa là A La Hán,

    chưa xả bỏ mọi phiền não mê lầm, nên bị vô minh che phủ trí toàn giác. Phật thành tựu

    vô thượng bồ đề mau chóng, mục đích tìm chân lý vì muốn cứu chúng sanh thoát khổ,

    trong giai đoạn tu hành tích lũy phước đức, cầu giác ngộ vì lợi ích chúng sanh. Cuối

    cùng Ngài thành Phật cũng vì lợi ích cho chúng sanh. Từ khi mới phát tâm cho đền khi

    thành đạo đều dựa trên căn bản tâm bồ đề, vì lợi ích chúng sanh. Đến khi thành Phật,

    Ngài có khả năng buông xả rốt ráo để đạt trí viên giác.

    Tất cả chúng ta đều có hạt giống thành Phật, có khả năng đạt vô thượng bồ đề.

    Điều thiết yếu là phải phát tâm bồ đề, nguyện thành Phật vì lợi ích chúng sanh, cố gắng

    tu trì tích lũy phước đức trí tuệ, hành tâm buông xả rốt ráo để thành tựu giác ngộ viên

    mãn. Chỉ có con đường Đại thừa mới có phương pháp đưa hành giả đến quả vị vô

    thượng bồ đề.

    Vì vậy nên pháp Đại thừa cao diệu hơn.

    Tuy nhiên, không thể cho rằng hành theo Đại thừa không cần đến Giới, Định,

    Huệ. Căn bản của Đại thừa chính là Tiểu thừa, chỉ khác là, Đại thừa đòi hỏi phải phát

    tâm đại bi và tâm bồ đề.

    3)

    Đặc Điểm của Kim Cang Thừa

    Pháp Đại thừa lại có hai, một là Tu Nhân ( Ba la Mật thừa ) hay là Hiển Tông, hai

    là Tu Quả, ( Kim Cang Thừa ) hay là Mật Tông. Mật Tông được cho là thâm diệu hơn.

    Mật Tông là một hệ thống hành trì Phật giáo được nhiều thế hệ cao tăng đắc đạo

    giữ gìn và truyền trao trọn vẹn không gián đoạn từ nhiều thế kỷ qua. Như Ngài Long

    Thọ ( Nagarjuna ), Nguyệt Xứng ( Chandrakirti ), Thánh Thiên ( Aryadeva ), cùng nhiều

    vị thánh danh tiếng khác từ Ấn Độ.

    Vì sao Mật Tông lại thâm diệu hơn?

    Những phép thần thông hay sự linh ứng của các câu thần chú chỉ là một việc nhỏ.

    Điều quan trọng cần hiểu rõ là phương pháp do chính Đức Phật truyền dạy cùng các

    phương pháp khác, mục đích chính là hành trì hai sắc thái trong Phật giáo là phương tiện

    ( Lục độ ) và trí tuệ.

    Hiển giáo và Mật giáo giống nhau nơi nội dung tu hành – phương tiện và trí tuệ –

    Nột dung giống nhau, nhưng cách hành trì lại khác.

    Hiển Tông khi nói, '' song tu phương tiện và trí tuệ,'' hay song tu công đức và trí

    tuệ, song tu ở đây có nghiã là song song, xen kẽ, dùng trí tuệ để tu phương tiện, hay

    dùng phương tiện để tu trí tuệ, lần lần tích tụ tư lương công đức, chứ không phải trong

    cùng một lúc mà đồng thời tích tụ được cả hai. Mật Tông cũng nói, '' song tu phương

    tiện và trí tuệ'', nhưng song tu ở đây không phải là thực hiện xen kẻ mà là đồng loạt,

    trong cùng một pháp tu tích lũy được cả hai công đức trí tuệ. Khi quán tưởng thân sắc

    tướng của Phật, đồng thời quán về tánh không của thân Phật. Quán tưởng sắc thân nhiệm

    mầu của Phật là phương tiện, nhờ vậy tích tụ được công đức. Quán tánh không của thân

    Phật là trí tuệ, nhờ vậy tích tụ được trí tuệ. Phương pháp này giúp hành giả cùng một lúc

    tích lũy được cả hai tư lương công đức trí tuệ, do đó đủ khả năng mau chóng thành tựu

    thân Phật và trí Phật. Đây là lý do vì sao Mật Tông lại thâm diệu hơn Hiển Tông.

    Làm thế nào trong cùng một công phu lại có thể song hành công đức và trí tuệ?

    Trước tiên, cần hiểu về cốt tũy của pháp quán tưởng Bổn Tông Du Già ( Deity

    yoga ) của bốn bộ Mật pháp. Quán tưởng Bổn Tôn Du Gìa phải phát khởi từ nền tảng

    tánh không. Đầu tiên quán về trí tuệ tánh không, kế quán thân sanh diệt của mình, từ

    tánh không khởi hiện thành tướng Phật, do đó biết thân Phật tuy hiện hữu nhưng không

    có tự tánh, chỉ do trí tuệ tánh không hoạt hiện mà thành ( do trí tưởng tượng từ tánh

    không ). Khởi hiện thân Phật, trưởng dưỡng tâm hãnh diện thoát tục ( divine pride ),

    niệm niệm không rời tánh không của thân Phật đang hiện ra.

    Trí tuệ tánh không hoạt hiện thành tướng Phật là quả của đường tu. Vì vậy mà nói

    Mật tông vận dụng quả để tu hành. Lấy kết quả để huân tập tâm thức, nhờ đó mau chóng

    đạt thành. Mật Tông là phương pháp tu nhanh chóng như vậy, nên đặc biệt hiếm quí.

    Mặc dù, tự mình hiện đủ loại thân Phật trong quán tưởng, nhưng không có nghiã

    là mình là Phật. Chỉ quán tưởng thôi. Chưa phải thành Phật thực sự. Nhưng cũng đừng

    nói mình không thể thành Phật, mọi người đều có khả năng này. Quán tưởng thân Phật

    để mau chóng tích lũy tư lương công đức, hiểu và quán về tánh không để mau chóng

    tích lũy tư lương trí tuệ.

    Giờ nên tìm hiểu vì sao gọi Mật Tông là '' tu quả '', hay Kim Cang thừa. Kim Cang

    là cứng chắc, không gì phá vỡ, biểu hiện cho sự hợp nhất không thể phân chia giữa trí

    tuệ và phương tiện. Khi hành trì theo pháp Bổn Tôn Du Gìa, hành giả luyện trí tuệ và

    phương tiện không xen kẽ mà cùng một lúc. Quán về cảnh Phật ( cõi Tịnh, Mandala ) là

    quán về sắc thân của Phật, về tâm hỉ lạc của Phật, về cảnh giới của Phật. Nhờ mang quả

    về ngay trong giây phút hiện tại, hành giả huân tập mọi tính năng của tâm mình để mau

    chóng đạt đến thành quả ấy. Kim Cang thừa là đường tu, phương tiện – trí tuệ không hai,

    mang kết quả về ứng dụng trên đường tu. Vì thế mà gọi Kim Cang thừa, là cổ xe '' tu

    quả''.

    4)

    Đặc Điểm của Mật Tông Tối Thượng Du Già

    Phương pháp Kim Cang Thừa lại phân thành bốn bộ.

    Đâu là tinh túy của Mật Tông Tối Thượng Du Gìa? ( Anuttarayagatantra )

    Giáo pháp Phật đặc biệt chú trọng đến tính không hai ( bất nhị )của phương tiện

    và trí tuệ. Hai sắc thái này được tu luyện hợp nhất trong Mật Tông. Pháp tu hợp nhất này

    không có trong Hiển Tông. Hiển Tông tuy kết hợp phương tiện và trí tuệ, nhưng rèn

    luyện song song, xen kẽ. Còn trong Mật Tông thì hoàn toàn là một.

    Mật Tông thường nói đến: nền tảng, đạo, và quả.

    Đạo là công phu tu hành. Quả là thành quả sẽ đạt đến. Còn nền tảng chính là thân

    người. Thân người có cả một hệ thống khí, kinh mạch, luân xa, nhiều loại tinh chất luân

    chuyển trong thân, như máu từ mẹ, tinh khí từ cha, và các hợp uẩn bồ đề khác

    ( bodhicitta substances ).

    Mật Tông cho rằng mỗi loại khí trong cơ thể ( lung ) tương ưng với một tầng tâm

    thức. Tâm và khí có nhiều tầng thô lậu và vi tế khác nhau. Mỗi loại khí kết hợp với một

    tầng tâm thức, phát sinh thành hình ảnh và ý tưởng trong tâm. Khi ngủ, chúng ta từ từ

    chìm sâu vào giấc ngủ, tâm thức càng lúc càng trở nên vi tế, phần tâm và khí thô lậu lúc

    tỉnh dần dần thu về hội tụ nơi huyệt tim, làm hiển lộ các tầng tâm và khí càng lúc càng

    vi tế. Dần dần chúng ta mất tri giác, bắt đầu nằm mơ. Khi thức giấc, các luồng khí tán ra

    khỏi vùng tim, tâm thức càng trở nên thô, cho đến khi thức hẳn.

    Hiển Tông và ba bộ mật pháp dưới của Mật Tông vận dụng lớp khí và tâm thô để

    thiền quán tu tập. Chỉ riêng các mật pháp trong Mật Tông Tối thượng Du Già không làm

    như vậy, mà

    chủ động thâu nhiếp các tầng tâm thức vi tế nhất để thiền quán về tánh

    không và về thân Phật, nhờ vậy có thể triệt bỏ mọi phiền não thô-tế, cùng với tất cả mọi

    tập khí phiền não tích lũy, đồng thời thành tựu ba thân Phật.

    Phương pháp này chỉ có trong Mật tông Tối Thượng Du gìa. Do đó, MTTTDG là

    thâm diệu nhất. Vì ở đây có cả một hệ thống trình bày về khí, kinh mạch, luân xa cùng

    những thành phần luân chuyển trong đó. Khi chạm tới điểm tinh tuý nhất của thân kim

    cang

    , hành giả thu nhiếp hết các tầng tâm khí thô lậu để hiển lộ phần tâm khí vi tế nhất,

    lấy đó làm nền tảng thiền quán tánh không và thiền quán thân Phật.

    Trong kinh thường nói đến khi Phật thi triển thần thông để thuyết pháp hay hóa độ

    chúng sanh, từ thân Phật thể hiện ra triệu triệu thân đầy khắp hư không; trên mồi đầu sợi

    tóc có vô lượng quốc đổ, mỗi quốc độ có ngàn triệu đức Phật vv...Thân tâm này của Phật

    là thân tâm cực kỳ vi tế, có thể tự tại ngự trên đầu sợi tóc không bị ngăn ngại.

    Điều này không phải tin mù quán. Làm hiển lộ và vận dụng thân tâm vi tế, đó là

    đặc điểm của Mật Tông Tối Thượng Du Già. Còn về những lãnh vực khác như tâm bồ

    đề và tánh không thì cũng giống như Hiển Tông không gì khác.

    Đừng cho rằng tu theo mật tông là tự do ngoài khuông khổ giới luật. Các Tổ sư

    truyền thừa mật pháp là những tỳ kheo giữ gìn phạm hạnh rất thanh tịnh trong suốt cuộc

    đời hành đạo.

    5)

    Đặc Điểm của Mật Pháp Kalachakra

    Mật Pháp Kalachakra là phương pháp cực kỳ thâm diệu. Vì cầu giác ngộ nhanh

    chóng để lợi ích chúng sanh. Điều cần yếu là đừng quá chìu thân xác, mà nên trú nơi

    tâm mình. Tâm vốn trong sáng, không ô nhiễm. Đặc tính của tâm không nhiễm ô, nhờ

    vậy mới có thể sám hối tịnh hóa tâm thức, đạt trí toàn giác. Trí này chính là tâm Phật.

    Còn thân Phật thì sao

    ? Làm thế nào chúng ta có thể đạt thành thân Phật?

    Theo pháp Mật tông, thân cha mẹ sanh là thân của mình, nhưng không thể lấy

    thân thô lậu này để chuyển thành thân Phật nhiệm mầu.

    Phải vận dụng phần tâm và khí

    vi tế nhất để thiền quán tánh không, rồi sám hối thanh tịnh mọi chướng ngại của thân và

    tâm ( sám hối nghiệp duyên ), thô và vi tế để chuyển thành sắc thân trong sáng của Phật

    Kim Cang Tát Đỏa ( Vajrasattva ) hay Phật Kim Cang Trì ( Vajradhara ), nói cách khác ,

    để chuyển thành thân Phật. Đây là phần thân và tâm vi tế nhất, khác với thân và tâm năm

    uẩn do cha mẹ sanh ra. Phần tâm và khí vi tế nhất quán tưởng tánh không, là trí Phật, trí

    Phật hoạt hiện thân Phật, thân và trí của Phật trở thành một hiện tượng duy nhất không

    thể phân chia, đó gọi là thân tâm của Phật.

    Kalachakra không những vận dụng thân và tâm vi tế nhất để thiền quán về

    tánh không, mà còn phải trải qua quá trình thu nhiếp toàn bộ mọi thành phần vật

    lý. Bao giờ mọi phần tử vật lý được thu nhiếp tiêu trừ, hành giả sẽ đạt thân vô sắc

    của Phật

    . Mật pháp Kalachakra không nói thân và khí vi tế khác với thân năm uẩn, mà

    dạy phương pháp tiêu trừ thân năm uẩn hiện có, để chuyển thân này thành thân vô sắc

    của Phật.

    Nội dung của Mật Pháp Kalachakra

     

    Read more »
RSS