Niệm Phật Đường
Welcome
Login / Register

Tantric scriptures - Mật Giáo


  • Mối Liên Hệ Thượng Sư & Đệ Tử


    Trong Phật Giáo Kim Cương Thừa, chúng ta thường nói đến Thượng sư và đệ tử, thượng sư là người thầy hướng đạo dẫn dắt đệ tử. Đây là một trong những lý do tại sao Thượng sư cần phải hội tụ đầy đủ những phẩm hạnh.

    Một Thượng Sư không thể đơn giản là người chỉ biết giảng Pháp hay vì điều đó quá dễ dàng và điều đó chỉ là phần lý thuyết.

    Quan trọng nhất là người thầy phải có những trải nghiệm chân thật. Dù thầy của bạn là ai đi chăng nữa thì cũng phải là người nhiều kinh nghiệm tu tập để ít nhất cũng hiểu thấu đáo được những gì mình nói. Nếu không, họ có thể nói thao thao bất tuyệt về rất nhiều điều nhưng lại chẳng biết mình đang nói gì.

    Đối tượng quy y thông thường trong Đạo Phật là “Phật, Pháp, Tăng”, tuy nhiên, trong Phật Giáo Kim Cương Thừa, chúng ta có thêm một đối tượng quy y nữa – đó là Thượng sư. Vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã thị tịch nên Thượng sư là người thay vì đức Phật truyền dạy, hướng đạo cho chúng sinh.

    Nếu không có các Ngài thì chúng sinh không biết con đường tu tập chân thật giải thoát nên Ngài đại biểu cho Phật, Pháp và Tăng. Mặc dù, Đức Phật Thích Ca đã thị hiện viên tịch nhưng Phật tính vốn sẵn đủ nơi chúng sinh tức là trí tuệ đại giác thì vẫn thường trụ bất biến. Phật tính thường trụ từ vô thủy nhưng chúng ta vẫn chưa chứng ngộ được nó. Do đó, chúng ta không thể thuyết giảng chính xác về cảnh giới giác ngộ hay Phật tính.

    Thượng sư phải là người hội tụ đầy đủ những phẩm hạnh của lòng từ bi, kinh nghiệm và sự tu chứng

    Tại sao chúng ta vẫn hay nói người thầy còn quan trọng hơn cả Đức Phật? Đó là bởi vì Thượng sư tiêu biểu cho Phật, Pháp, Tăng và vì Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn nên chúng ta chỉ có thể tiếp xúc và tu học với một người thầy trong hình tướng loài người. Thông qua sự truyền thông này người thầy sẽ hướng đạo, dẫn dắt chúng ta. Vì vậy, đương nhiên Thượng sư phải hội tụ đầy đủ những phẩm hạnh về lòng từ bi, kinh nghiệm và sự tu chứng. Người thầy phải có tâm từ bi, đặc biệt là lòng từ bi bình đẳng.

    Nếu không có phẩm chất này thì người đó không đủ hạnh làm thầy. Chúng ta có thể chắc chắn một điều rằng nếu một người không có tấm lòng từ bi hỷ xả thì người đó không phải là một Thượng sư.
    Nếu một người thầy có tâm đại từ, đại bi bình đẳng thì dù họ không uyên bác, danh tiếng hay không được trọng vọng trong xã hội cũng không sao. Bởi lẽ họ thực sự chứng đạt và có kinh nghiệm về những gì họ nói nhờ vào sự hiện diện của tâm từ bi ấy. Một mặt rất khó để kiểm chứng phẩm chất của một người thầy, nhưng mặt khác lại rất dễ dàng để làm điều đó vì bạn chỉ cần để ý xem liệu người thầy ấy có từ bi hay không.

    Nói về tâm từ bi, tôi cho rằng các bạn cũng cần phải hết sức thận trọng bởi vì tâm từ, tâm bi như ái kiến từ bi hay từ bi có điều kiện khá khó có thể nhận diện và dễ nhầm lẫn. Ý tôi muốn nói là tâm từ bi có thể dễ bị đánh lừa theo nghĩa là mọi người ai cũng có thể bộc lộ tình thương và lòng từ ‘thông thường’ nhờ tâm đại từ đại bi và đại trí mà tất cả chúng ta vốn dĩ xưa nay vẫn có từ vô thủy.

    Tất cả mọi người ở khắp mọi nơi đều có một chút tâm từ và tâm bi, ngay cả loài côn trùng bé nhỏ nhất từ vô thủy cũng đã sở hữu tất cả những phẩm chất này. Đây là lý do tại sao chúng ta vẫn còn sống và tồn tại trên thế giới này – bằng không chúng ta hẳn đã sát hại tất cả lẫn nhau mất rồi! Nếu không có tình thương và lòng từ bi, hẳn mọi người ai cũng lăm lăm tay súng tay dao và đã tự hủy diệt lẫn nhau từ lâu rồi. Mặc dù chúng ta không phải đang chung sống hòa thuận nhưng dù sao vẫn còn tương đối ổn thỏa nhờ vào bản tâm đại từ đại bi này.

    Tình thương của chúng ta rất không bình đẳng và có điều kiện, chưa đủ để trở thành một Thượng sư

    Mặc dù chúng ta từ vô thủy vẫn có tâm đại từ đại bi, đại trí tuệ nhưng chúng ta chưa hoàn toàn chứng ngộ được bản tâm của mình; bản tâm của chúng ta vẫn bị vô minh che lấp. Đây là lý do tại sao chúng ta chưa có tình thương bình đẳng trong sự tu tập thường nhật. Tình thương của chúng ta rất thiên vị và có điều kiện nên chưa đủ phẩm chất để trở thành một người thầy.

    Một Thượng sư chân thật phải sở hữu một tình thương bình đẳng và vô điều kiện đối với các đệ tử và tất cả những người xung quanh, phải có lòng từ mẫn đối với tất cả mọi hữu tình. Ngay cả đối với những người không có tín tâm và tôn trọng mình, vị Thượng sư vẫn trải rộng tình thương và từ ái đến với họ, điều này có nghĩa là Ngài có vô duyên từ (tâm từ bi vô điều kiện). Tôi hy vọng các bạn thấu hiểu rằng tình thương và lòng từ bi vô điều kiện nghĩa là thương yêu và từ ái vô ngã vị tha mà không cần có bất kỳ điều kiện gì.

    Ngày nay, chúng ta yêu thương nhau vì rất nhiều lý do, chẳng hạn như nhu cầu phải được người khác thương yêu mình. Bạn có thể thấy là bạn yêu thương người khác vì những lý do rất hợp lý. Nếu không có những lý do đó, bạn hẳn đã không yêu thương người khác. Ngược lại, nếu bạn thương yêu một người nào đó mà không vì bất kỳ lý do nào thì sẽ lại bị coi là hẳn bạn có ‘vấn đề’ nào đó! Chúng ta tin là như vậy nhưng niềm tin ấy không chân thực. Tình thương ‘vô điều kiện’ là tình thương không vì bất kỳ lý do nào.

    Thượng sư phải có tình thương và lòng từ bi đối với tất cả các đệ tử bất kể họ là ai

    Thượng sư phải có vô duyên từ bi - tình thương và lòng từ bi vô điều kiện không phân biệt đối với tất cả chúng sinh. Hãy thử tưởng tượng nếu một người thầy yêu người Pháp hơn người Ý, hay thương người Tây Tạng hơn người Châu Âu, thì sẽ thế nào? Sự thực là không nên có bất kỳ tình yêu thương thiên lệch phân biệt nào, nhất là đối với các đệ tử dù họ là ai. Dù người đệ tử có đi theo chính đạo và tu tập hay không thì người thầy vẫn yêu thương họ một cách vô điều kiện. Điều này cũng có nghĩa là người đệ tử được thầy yêu thương không điều kiện dù đệ tử có cúng dường thầy thật nhiều tiền hay chẳng cúng dường chút nào. Mặc dù không phụng sự được thầy về mặt vật chất nhưng nếu bạn tu tập một cách chân chính bằng cách giúp đỡ hết thảy hữu tình thì vẫn là người đệ tử chân chính. Bổn phận một người đệ tử cần phải phát tâm bồ đề tu trì đạo tâm vì lợi ích của vô lượng chúng sinh.

    Chừng nào tâm bồ đề của bạn kiên cố như vậy bạn xứng đáng là một đệ tử. Mặc dù bạn xứng đáng là một đệ tử nhưng người thầy cũng không vì thế mà có sự phân biệt trong việc dành tình thương và quan tâm đối với bạn và những đệ tử khác. Tâm từ bi không chịu sự chi phối của bất kỳ điều kiện nào – đó là điều tôi muốn nói. Tình thương không nên có điều kiện. Giống như sóng biển, dù xảy ra điều gì thì biển vẫn luôn dậy sóng. Cũng như thế, tình thương luôn luôn hiện hữu và dành cho tất thảy hữu tình; nó giống như hư không hay sóng biển vậy.

    Đối với người đệ tử, phát tâm bồ đề rất quan trọng

    Như tôi đề cập ở trên, việc phát tâm bồ đề là rất quan trọng đối với người đệ tử. Những đệ tử có động cơ để làm tăng danh vọng địa vị của mình bằng cách thực hành Phật Pháp, tu tập tâm linh, hay thụ nhận Pháp danh quy y với một vị đạo sư ‘thế này thế kia’, hay bằng việc trở thành một thành viên của một cộng đồng hay dòng truyền thừa ‘này nọ’ thì không xứng đáng được gọi là đệ tử, nghĩa là họ không phải là chân đệ tử. Rất nhiều người trong chúng ta bị mắc khiếm khuyết này trong động cơ của mình. Chúng ta ưa thích khoe khoang về danh tiếng người thầy của mình.

    Dĩ nhiên, tự hào về thầy là điều tốt, nhưng khi tôi kiểm nghiệm động cơ của những người này thì luôn thấy có điều gì đó không ổn. Họ cho rằng Thượng sư của mình phải là người có một danh hiệu nào đó như ‘Pháp Vương’, ‘Nhiếp Chính Vương’ hay ‘Rinpoche’ chẳng hạn. Danh tiếng người thầy càng cao thì bạn càng có xu hướng bám chấp vào nó nhiều hơn! Điều này hoàn toàn không nên chút nào. Nếu như vậy, giả dụ bạn có một người thầy chân chính nhưng không hề có tước hiệu hay không được trọng vọng trong xã hội (nhất là trong cộng đồng Tây Tạng hay Phật Giáo) thì bạn sẽ không muốn nêu tên Ngài mà chỉ gọi Ngài là ‘Thượng sư’ vì không mấy ai biết đến Ngài.

    Như thế là không tốt bởi lẽ động cơ không chân thật. Hơn thế nữa, tôi còn chứng kiến nhiều người đệ tử có chiều hướng muốn thay đổi đạo sư của mình. Đây là điều tôi không sao hiểu được! Thoạt đầu bạn cho rằng một người nào đó là một đạo sư tốt nên bạn quyết định đi theo Ngài, nhưng sau đó bạn nhận ra rằng người thầy của mình không ‘cao cấp’ lắm! Một đạo sư khác nào đó ‘cao cấp’ hơn xuất hiện, danh tiếng hơn và đông đệ tử hơn. Và thế là bạn tiếp cận vị đạo sư này, nói rằng ‘Con đã từng quy y theo người này nhưng giờ con không còn quý mến người đó nữa. Giờ đây con xin nguyện quy y với Ngài!’ Có thể vị thượng sư mới sẽ hỏi: ‘Tại sao?’ Bạn đáp: ‘Vì Ngài có danh hiệu là ‘Pháp Vương’ hoặc ‘Nhiếp Chính Vương’ và tất cả mọi người ai cũng kính trọng Ngài’. Lý do là thế đấy. Rồi sau đó, bạn ra ngoài và tuyên bố: “Tôi là đệ tử của ‘Pháp Vương’, hay tôi là đệ tử của ‘Nhiếp Chính Vương’!”.

    Như vậy là bạn đang chỉ lợi dụng danh tiếng của người thầy mà không hề tiếp xúc được căn bản tình thương và lòng từ bi nơi Ngài. Thậm chí, bạn không hề quan tâm xem liệu Ngài có từ bi hay chỉ có danh mà không có thực tâm. Bạn chỉ quan tâm đến cái danh huyễn, điều này thực sự rất không tốt. Bạn cần phải phát tâm chân thật.

    Cần thiết phải phát tâm bồ đề chân thật để tu tập đạo tâm vì lợi ích của hết thảy chúng hữu tình

    Trước hết cần phải phát tâm chân thật để tu tập giải thoát vì lợi ích chúng sinh. Động cơ này là điều tối quan trọng cần phải phát nguyện khi bạn quy y hay khi khởi đầu sự tu tập. Bạn cần phát tâm bồ đề mạnh mẽ và chân thành vì nhiêu ích giải thoát chúng sinh nhờ vào sự thực hành của mình. Để trưởng dưỡng được tâm bồ đề như vậy, bạn cần phải được dẫn dắt hướng đạo, vì vậy điều quan trọng thứ hai là bạn phải tìm được một đạo sư chân chính, nghĩa là một người thầy có kinh nghiệm tu chứng và tâm đại từ bi bình đẳng. Đó là tất cả những gì bạn cần. Sau đó, thực sự là bạn không cần bận tâm về những tiểu tiết cũng như những vấn đề nhỏ nhiệm về hoàn cảnh sống của mình. Chẳng hề hấn gì cho dù điều kiện sống của mình không được thuận lợi và suôn sẻ.

    Chừng nào động lực của bạn tu tập để lợi ích tất thảy hữu tình thì dù điều kiện nhân duyên gì xảy ra cũng không phải là vấn đề. Dù hoàn cảnh không thuận lợi cũng không sao và bạn không cần phải buồn, lo lắng vì nó. Tất cả những gì bạn cần làm là nhất tâm tu tập để lợi lạc quần sinh. Nếu không, những vấn đề thông thường sẽ xuất hiện và chi phối bạn. Chẳng hạn như sẽ nảy sinh sự thất vọng, nhất là thất vọng về Tăng Đoàn, hay thất vọng với sự sắp xếp tổ chức các buổi giảng Pháp, hoặc thậm chí thất vọng về thượng sư và giáo pháp. Bạn sẽ bị thất vọng đủ thứ. Ví dụ, khi định đăng ký vào một đạo tràng để thụ nhận giáo pháp từ một pháp sư nào đó, bạn sẽ bảo: “Ôi, phí đăng ký đắt quá, tôi không thể tham dự được!” Hoặc có thể phàn nàn rằng bạn muốn duỗi chân cho đỡ mỏi, nhưng vị pháp sư không cho bạn thời gian để nghỉ, v.v...

    Nếu bạn không chuyên tâm hoặc không phát bồ đề tâm vì lợi ích chúng hữu tình thì sẽ có rất nhiều trở ngại xảy đến với bạn

    Những điều nhỏ nhiệm không mấy thuận lợi có thể sẽ gây cho bạn rất nhiều trở ngại và tổn hại đến tín tâm của bạn. Vì động cơ của bạn là có điều kiện nên bạn rất dễ sân hận. Tuy nhiên, nếu bạn nhất tâm phát nguyện thì bạn sẽ không bị sân hận chi phối. Nếu bạn không nhất tâm hoặc không phát tâm bồ đề vì nhiêu ích chúng sinh thì mọi thứ khác sẽ gây rất nhiều trở ngại với bạn.

    Thí dụ như, rất nhiều người muốn người thầy lúc nào cũng dành sự chú ý về mình. Nhưng làm sao mà đạo sư có thể lúc nào cũng chú ý đến những mong muốn nhỏ nhặt này được? Làm sao đạo sư có thể suốt 24 tiếng một ngày quan tâm chú ý đến họ bằng cách mỉm cười với họ, nhìn họ, vỗ vai họ, gọi điện cho họ, viết thư hay gửi thư điện tử cho họ được?

    Làm sao Ngài có thể thực hiện nổi việc này trong khi có thể có tới hàng nghìn đệ tử và vì vậy Ngài sẽ phải gửi hàng nghìn email, viết hàng nghìn lá thư và nói chuyện điện thoại với hàng nghìn người được?! Làm sao Ngài có thể lúc nào cũng dành đủ thời gian cho từng đấy con người? Nhưng nếu Ngài không đáp ứng được điều này, lập tức nhân duyên của bạn với Ngài chấp dứt. Bạn tuyên bố: “Thôi được, giờ tốt hơn hết là mình phải đổi đạo sư vì chẳng thấy Ngài gửi mình email hay gọi điện gì cả. Mình đã cho Ngài số điện thoại của mình nhưng chẳng nhận được cuộc gọi nào. Thế nên mình sẽ tìm một người thầy khác, người sẽ quan tâm đến mình, gọi điện hỏi thăm mình!”

    Mục đích mối liên hệ giữa thượng sư và đệ tử là hướng tới sự trưởng dưỡng đạo tâm

    Điều này là hết sức nực cười phi lý và không có ý nghĩa gì xét từ khía cạnh tu tập thực hành đạo pháp. Dĩ nhiên, nếu xét từ khía cạnh quan hệ thì khác. Nếu bạn muốn tìm cầu Thượng sư dưới hình thức bạn trai, bạn gái hay thành thân thì lại là một vấn đề khác. Nhưng nếu bạn thực sự muốn tu tập thì bạn không thể đòi hỏi Ngài làm những việc này được. Ngay cả một đạo sư có tâm đại từ bi vô điều kiện cũng không thể đáp ứng nổi. Nếu thực sự là những hành giả tu hành chân chính, chúng ta cần phải phát tâm vì lợi ích của chúng sinh. Đây là phương cách tu tập trưởng dưỡng tín tâm dâng hiến đối với đạo sư. Mối liên hệ giữa thầy và đệ tử chỉ nhằm trưởng dưỡng phát triển đạo tâm.

    Mục đích của trưởng dưỡng đạo tâm là vì lợi ích hết thảy chúng hữu tình. Không có bất kỳ mục đích nào khác ngoài mục đích này. Những vấn đề khác chỉ là thứ yếu theo nghĩa chúng sẽ hỗ trợ cho mục đích rốt ráo ấy. Những vấn đề thứ yếu đó bao gồm những việc như thất tu thiền định của bạn ấm áp hơn để hỗ trợ cho sự tu tập, hay luôn có thiện hữu tri thức, tức là ‘Tăng đoàn’ trên bước đường tu; những hành giả khác trong Tăng đoàn có thể trợ duyên cho sự thực hành của bạn. Tất cả những nhân duyên điều kiện này có thể trợ giúp cho bạn rất nhiều, hoặc đôi khi lại có thể gây phiền phức. Thế nhưng, không nên để bất cứ nhân duyên tiêu cực nào chi phối tín tâm dâng hiến của bạn. Chớ để chúng làm mất tín tâm của bạn đối với đạo sư, giáo pháp và sự tu tập. Chớ để tín tâm bị tác động bởi bất cứ điều kiện nào.

    Tất cả mọi thứ đều có thể xảy ra trên thế giới này nhưng mấu chốt căn bản là bạn đừng để bị chi phối. Không bao giờ để tín tâm dâng hiến của bạn đối với giáo pháp của đức thượng sư và sự tu tập bị xao lãng. Đặc biệt, không nên xao nhãng trong sự tu tập thực hành vì tín tâm của bạn đối với đạo sư trước hết được nuôi dưỡng phát triển từ sự thực hành. Nếu không, sẽ rất khó để chúng ta tìm được cách thức tức thời trưởng dưỡng tín tâm hướng về đạo sư trước khi thực hành và sau đó mong muốn tu tập theo giáo pháp Ngài dạy. Mặc dù có thể thực hiện theo cách này nhưng sẽ rất rủi ro. Tôi cho rằng đây chính là lý do tại sao hầu hết mọi người đều bị trật khỏi chính đạo, khỏi thượng sư, giáo pháp của Ngài và đánh mất tín tâm của mình. Điều này sẽ có nguy cơ xảy ra.

    Điều tôi đang muốn truyền tải đến với bạn là mặc dù bạn có thể có một mối liên hệ ‘tốt’ với đạo sư, nhưng bạn có thể lại không có sự kết nối trong tu tập và giáo pháp của đạo sư. Tín tâm dâng hiến của bạn rồi sẽ bị cản trở không được trưởng dưỡng. Bạn sẽ cảm thấy bị bế tắc và mặc dù vậy bạn vẫn sẽ chắc biết điều gì đang xảy ra. Bạn sẽ nghĩ “Mình kính trọng và yêu quí vị đạo sư này. Mình có một mối quan hệ tốt với Ngài, nhưng chẳng thể nào tu tập được nữa. Mình không thể hiểu nổi những gì Ngài truyền dạy.” Điều tồi tệ nhất là bạn sẽ rất dễ dàng từ bỏ đạo sư và giáo pháp. Thậm chí cho dù nếu bạn không từ bỏ Ngài thì mối liên hệ với Ngài cũng chẳng có ý nghĩa gì vì bạn không tu tập. Nếu bạn không tu sẽ giống như đi khám bác sĩ mà không chịu dùng thuốc. Nếu bạn không dùng thuốc thì đi khám bác sĩ có ích lợi gì đâu?

    Vì bạn rất dễ bị xao lãng trước những cám dỗ thế gian, cách tốt nhất là bắt đầu bằng việc chú trọng vào giáo pháp

    Tôi đã chứng kiến rất nhiều tình huống xảy ra ở châu Mỹ, châu Âu và Đông Nam Á khi những người đệ tử hỏi chuyện nhau những câu như: “Ai là thầy anh? Thầy tôi là ‘thế này thế kia’.” Giống như thể họ đang cạnh tranh với nhau vậy. Họ ganh đua với nhau xem đạo sư của ai trẻ hơn, đẹp đẽ hơn, ai nói hay, ai nói dở, ai giao tiếp tốt hơn, v.v... Tôi nghe thấy nhiều thanh niên nói về người thầy như thể họ đang nói về bạn trai, bạn gái của mình vậy! Đó là do họ khởi đầu từ việc có thầy trước rồi sau mới tu tập. Cách này khó thành công hơn vì bạn rất dễ bị trần lụy thế gian làm cho xao nhãng. Vì thế, tốt nhất là hãy bắt đầu bằng việc chú trọng vào giáo pháp.

    Hãy lắng nghe giáo pháp của đạo sư, cố gắng nghiền ngẫm và tìm hiểu thấu đáo rồi kiểm nghiệm xem liệu có phù hợp với bạn hay không. Nếu phù hợp, nghĩa là bạn đã bắt đầu có tín tâm dâng hiến và mối liên hệ với giáo pháp của vị đạo sư đó. Sau khi phát triển được mối liên hệ với giáo pháp của đạo sư, thì tín tâm và mối liên kết của bạn với Ngài sẽ vô tác thành tựu.

    Pháp là đối tượng quy y quan trọng nhất

    Đó là nguyên tắc tương tự như khi chúng ta quy y Phật, Pháp và Tăng. Pháp là đối tượng quy y quan trọng nhất bởi lẽ sau khi hiểu được chân lý và vẻ đẹp của Pháp, bạn sẽ, một cách tự nhiên vô tác, kính ngưỡng Đức Phật Thích Ca vì Ngài chính là người truyền dạy giáo pháp. Vì thế, mặc dù theo thứ lớp quy y, Phật đứng trước Pháp nhưng xét về tầm quan trọng thì thực ra Phật còn đứng sau Pháp. Trong sự tu tập thực hành, Pháp xếp trước tiên, sau đó là Phật vì chỉ sau khi kính ngưỡng Pháp thì sự kính ngưỡng đối với Phật sẽ tự nhiên phát khởi. Nên theo cách thức đó. Cho nên, Pháp phải được quy kính trước hết sau đó mới đến vị thượng sư giáo dạy bạn.

    Tôi cho rằng đây là phương cách rất tốt để phát triển mối liên kết giữa thượng sư và đệ tử. Phương cách này sẽ ít rủi ro và ít lầm lẫn hơn bởi vì bạn đã khai phát được lòng quy kính trước giá trị, hương vị và vẻ đẹp của giáo pháp. Giáo pháp khi đó sẽ đóng vai trò như loại ‘keo dính’ kết nối mạnh mẽ giữa bạn và thượng sư. Đó sẽ không chỉ là một mối liên kết bất hoại mà còn rất an lành nữa bởi lẽ bạn sẽ một lòng nhất tâm khao khát thực hành giáo pháp của Đức Phật thông qua khẩu truyền từ vị thượng sư trong hình tướng loài người mà bạn được hạnh ngộ.

    Vì thế, đây là cách thức thuần tịnh để quy y và bước đi theo con đường đạo pháp. Tất cả những nhân duyên điều kiện khác trở thành thứ yếu và bạn sẽ thậm chí chẳng còn phải quan tâm đến chúng. Đây chính là những gì tôi đã tự mình trải nghiệm bởi vì tôi cũng đã từng gặp những vấn đề tương tự như của tất cả các bạn. Tôi từng có vấn đề trong mối liên hệ với thượng sư, với Tăng đoàn và về mặt chính trị. Thế nhưng, giờ đây tôi thực sự cảm thấy chẳng cần thiết phải làm gì với những vấn đề đó trong sự tu tập và trưởng dưỡng đạo tâm của mình. Tất cả những gì tôi phải làm là tập trung vào việc tu tập tâm linh nương theo ân đức gia trì của thượng sư. Còn những việc khác mọi người muốn làm gì cũng được.

    Chúng ta cần có cái nhìn vượt lên trên quan kiến thông thường hiện tại để nhìn vạn pháp từ lăng kính ‘Báo Thân’

    Cuối cùng chúng ta sẽ có thể tôn kính đạo sư của mình như Vajradhara – Đức Phật Kim Cương Trì, tôn kính Tăng đoàn như chư Bồ Tát, Daka, Dakini. Tuy nhiên, để có được quan kiến này, chúng ta cần vượt lên trên ý niệm hiện tại thông thường và nhìn vạn vật từ lăng kính ‘Báo Thân’. Mặc dù ngay lúc này điều đó có thể quá ‘cao’ và ‘xa vời’, chúng ta vẫn nên đặc biệt quan tâm cho mối liên kết với các thiện hữu tri thức giống như trưởng dưỡng mối liên kết với đạo sư.

    Sống lục hòa tương thân tương ái rất quan trọng cho dù bạn có phải là hành giả hay không, đặc biệt là sống trong Tăng đoàn. Nếu chúng ta không sống tương thân tương ái thì cho dù có tín tâm và sùng kính đức thượng sư, chúng ta vẫn sẽ bị lạc lõng và cảm thấy bị đối xử tệ hại. Những cảm thọ tiêu cực đối với Tăng đoàn chính là phiền não và ám chướng nặng nề, không có gì tồi tệ hơn thế và ảnh hưởng rất xấu tới sự tu tập của bạn. Nếu chúng ta cười nói, giả vờ thân thiết như ôm hôn, bắt tay một cách giả tạo, không xuất phát từ trái tim mình thì sẽ gây ra rất nhiều vấn đề rắc rối cho cả cá nhân chúng ta lẫn người khác. Ấy vậy mà tình trạng này lại đang diễn ra trong Tăng đoàn của chúng ta. Mọi người ôm hôn nhau và nói lời “Xin chào” nhưng lại nói xấu sau lưng nhau. Quả là bất hạnh thay khi đó là điều mà một số hành giả của Đạo Phật đang cư xử, nó ảnh hưởng rất xấu tới sự tu tập đạo tâm.

    Mối liên hệ giữa thượng sư và đệ tử đơn thuần là vấn đề liên quan đến trưởng dưỡng tín tâm

    Mối liên hệ giữa thượng sư và đệ tử đơn thuần là vấn đề liên quan đến trưởng dưỡng tín tâm. Như tôi vẫn thường nói, tín tâm là chính kiến bởi lẽ chỉ thông qua chính kiến thì lòng tin chân chính mới phát khởi. Trong trường hợp này, điều đó có nghĩa là trước khi phát triển mối liên hệ thầy trò, bạn cần hiểu rõ người thầy và người thầy cũng cần hiểu rõ về bạn cùng những phẩm chất của bạn với tư cách là một người đệ tử. Mỗi bên đều nên phát triển sự hiểu biết về mặt trưởng dưỡng đạo tâm và phẩm hạnh nội tâm. Ví dụ, người thầy phải kiểm tra sự tinh tiến và tâm bồ đề của đệ tử. Còn đệ tử cũng có quyền kiểm chứng liệu người thầy có từ bi và chân tu thực chứng hay không.

    Người thầy không nên gượng ép bắt đầu mối liến hệ này trừ phi đảm bảo được sự tinh tiến và bồ đề tâm của đệ tử. Người đệ tử không nên vội vàng khởi đầu mối liên hệ trong khi không biết chút gì về đạo sư mà chỉ vì danh tiếng của người đó. Thực hành giáo pháp là điểm mấu chốt trong sự kết nối này.

    Xin lấy một ví dụ, Ngài Marpa đã không truyền giáo pháp cho Ngài Milarepa trong một thời gian rất dài. Milarepa bị bỏ lại trong khi Marpa truyền thụ giáo pháp cho hơn một trăm đệ tử khác. Mặc dù không được tham dự những buổi truyền pháp như vậy suốt nhiều năm, nhưng Milarepa không bao giờ nghi báng trí tuệ của Marpa. Vì Marpa và Milarepa đều có chính kiến nên mối liên hệ giữa họ trở nên bất hoại. Milarepa chỉ lo ngại rằng mình sẽ không bao giờ được thụ nhận giáo pháp từ Marpa.

    Marpa tiếp tục trì hoãn không truyền thụ giáo pháp cho Milarepa vì Milarepa cần phải tịnh hóa bản thân bằng cách xây dựng rất nhiều công trình, đây chính là pháp tu mở đầu của Ngài. Pháp tu mở đầu của Milarepa là xây cất các công trình, sau đó đập bỏ chúng, rồi xây dựng lại. Ngài phải lặp đi lặp lại công việc này rất nhiều lần. Marpa không thể dạy pháp cho Milarepa trước khi pháp tu mở đầu của Milarepa được hoàn thành bởi vì nếu không giáo pháp sẽ không được thấm nhuần một cách hiệu quả nhất. Do đó, điều quan trọng là Milarepa phải từng bước hoàn tất pháp tu mở đầu của mình một cách chính xác. Đây là lý do chủ yếu tại sao Ngài Marpa cứ liên tục trì hoãn chưa ban truyền giáo pháp cho Milarepa.

    Ngày nay, các bậc thượng sư thường truyền dạy giáo pháp liền một lúc. Rồi họ tuyên bố: “Được rồi đấy, giờ ta đã truyền thụ tất cả các pháp tu cho con, bao gồm cả Mahamudra và Dzogchen. Nay con đã có được mọi pháp để tu tập mà không cần phải hoàn thành bất kể pháp tu mở đầu nào.” Đây thực sự là một sự hỗn tạp! Mặc dù không nên thực hiện theo cách thức này, vậy mà một số người thầy vẫn cứ làm. Tôi không hiểu tại sao, có lẽ là do họ không có đủ phẩm hạnh hoặc có thể họ chỉ ‘trưng bày’ thế thôi và vì lý do nào đó họ không truyền thụ bất kỳ giáo pháp nào. Điều này quả thực không nên.

    Thượng sư nên thực tế và cần phải kiểm tra tâm bồ đề của đệ tử

    Thượng sư nên thực tế và cần phải kiểm tra tâm bồ đề của đệ tử. Sau đó, cố gắng trưởng dưỡng cho người đệ tử. Còn người trò không nên vội vàng hấp tấp lao vào các pháp tu cao cấp mà không bắt đầu bằng tu trì pháp tu mở đầu. Đệ tử nên làm những việc thực tế, đừng nên chỉ quanh quẩn bên đạo sư và chuyện trò với Ngài. Có thể sẽ mang lại niềm vui thật đấy nhưng không thực tế. Bạn nên chỉ thụ nhận một số giáo pháp, sau đấy thực hành pháp tu đó. Như vậy lợi ích hơn rất nhiều việc chỉ biết loanh quanh rao rảng: “Ồ, đức thượng sư của tôi là thế này thế kia, tôi đang đi cùng Ngài và đoàn của Ngài.” Việc này không lợi ích. Nó không có chút ý nghĩa nào ngoại trừ gia tăng danh vọng. Do đó, sự tu tập tâm linh của bạn cần phải được thực hiện.

    Khi bạn đã có đôi chút tín tâm, chính kiến và một chút ý thức rõ ràng trong tâm về đạo sư và giáo pháp của Ngài, giáo pháp đó cần phải được vận dụng và hiểu biết đúng đắn ngay lập tức. Nếu bạn nắm bắt và vận dụng được sự hiểu biết của mình theo mục đích, bạn sẽ tiến bộ trên bước đường tu tập. Bằng không, sẽ chẳng có điều gì xảy ra. Vì vậy, từ nay trở đi bạn nên bắt đầu sự tu tập. Như tôi đã từng nói, nếu bạn nhất tâm thì sẽ không có điều gì thực sự đáng ngại cả. Chỉ cần kiên trì tu tập thì không có gì đáng để bận tâm nữa. Hãy nhất tâm trưởng dưỡng tâm bồ đề vô ngã vị tha và sự tu trì của bạn sẽ là sự tu tập chân chính. Như vậy đấy! Bạn hãy thực hành và sự tiến tu sẽ tiếp bước theo sau.

    Dĩ nhiên, người ta thường nói rằng tín tâm ban đầu cần phải rất mạnh mẽ rồi bạn mới tiến bộ được. Thế nhưng, thực ra rất khó để có được tín tâm mạnh mẽ ngay từ đầu, cho nên một khi bạn đã phần nào hiểu được về người thầy, bạn thực sự cần tận dụng và đừng lãng quên. Đừng nên đánh mất chính kiến ấy.

    Hiện nay, nhiều Phật tử rất thiếu chính kiến. Họ không biết mình thực sự đang làm gì trong việc tu tập đạo tâm. Họ luôn khát khao mong đợi khám phá ra điều gì đó nhưng lại không chịu tu tập thực hành. Họ có mong muốn mạnh mẽ tham dự những đại pháp hội trước khi bắt đầu sự thực hành, nhưng điều đó chẳng giúp ích gì vì cuối cùng họ lâm vào nghi báng do thiếu trí tuệ. Có được thứ trí tuệ nhất tâm rất cần thiết quan trọng nhưng trí tuệ ấy lại bị thiếu mất. Họ chỉ biết ngồi đó suy nghĩ vẩn vơ xem mình nên tu pháp nào: “Mình thụ nhiều pháp như thế, nên tu pháp nào đây? Nên theo đạo sư nào đây? Nên nhận một hay hai người làm thầy? Nên tu pháp Dzogchen hay Jang Chog (pháp tu cầu siêu)?” Đủ thứ vọng niệm tà kiến sẽ phát khởi.

    Bạn nên thực hành ngay khi có chính kiến

    Sẽ có rất nhiều mâu thuẩn nảy sinh trên con đường đạo pháp của bạn, chúng mang tính hủy hoại và lãng phí rất nhiều năng lượng và thời gian của bạn khi bạn chỉ biết ngồi đó suy nghĩ vẩn vơ mà không chịu tu tập. Thay vì như vậy, bạn nên lập tức tu tập thực hành mỗi khi có chính kiến. Bạn nên nắm bắt lấy những cơ duyên này nhưng đồng thời cũng phải kiểm chứng xem chính kiến đó là như thế nào. Có phải bạn thực sự say mê giáo pháp và tu trì vì lợi ích của hết thảy hữu tình hay chỉ vì bạn quan tâm ưa thích cá nhân vị đạo sư đó? Điều này rất quan trọng. Nếu chỉ vì bạn quan tâm ưa thích cá nhân người thầy đó thì rất nguy hiểm và dễ lầm lạc. Hệ quả sẽ dẫn đến nhiều hiểu lầm rắc rối. Tuy nhiên, nếu bạn ưa thích giáo pháp của đạo sư thì đó là điều tốt. Vì vậy, một mặt rất khó để có thể khởi đầu, nhưng mặt khác cũng lại rất giản đơn.

    Ngay trong cộng đồng người Tây Tạng chúng ta cũng gặp phải rất nhiều vấn đề. Chúng ta có rất nhiều tín đồ nhưng tín tâm của họ rất mang nặng tính bè phái. Họ phân biệt “Ôi, Pháp Vương của chúng ta! Đức Thượng sư của chúng ta! Thầy của chúng ta!” Từ tận đáy lòng, họ rất mực kính quý, luôn chăm sóc chu đáo cho đạo sư và thậm chí có thể hy sinh tính mạng vì người thầy. Nếu họ thực sự kính trọng bậc Thượng sư là rất tốt. Thế nhưng, đó không nhất định là lòng tín tâm sâu sắc mà là do ái kiến tình cảm. Họ sẵn sàng hy sinh vì đạo sư do xúc cảm mạnh mẽ và kéo dài. Đó không phải là tín tâm sâu đậm vì họ có thể lại rất ghét những Thượng sư khác. Trong xã hội Tây Tạng, chúng ta đặc biệt có xu hướng tiêu cực này. Song, tôi hy vọng rằng xu hướng này sẽ không gặp phải ở phương Tây nơi Phật Pháp còn rất mới mẻ.

    Chúng ta không nên để bất kỳ cảm xúc hay ý tưởng tiêu cực nào ảnh hưởng xấu đến tín tâm của mình.

    Chúng ta không nên để bất kỳ cảm xúc hay ý tưởng tiêu cực nào ảnh hưởng xấu đến tín tâm của mình, nếu không, đó tuyệt đối không phải tín tâm thanh tịnh. Chúng ta cần có tín tâm thanh tịnh, chính kiến thanh tịnh dựa trên sự tu tập đạo tâm. Không nên khởi nghi báng về bậc thượng sư người đã khai thị hướng đạo để trực nhận bản tâm nơi mình. Bất kỳ ai khai thị bản tâm trong sáng nơi bạn, người đó luôn là bậc vô thượng sư, nhưng chớ để điều đó khơi dậy tình cảm trần lụy mà hãy để nó khơi dậy tín tâm và trí tuệ hiểu biết của bạn về Đức Phật Kim Cương Trì - Vajradhara và bản tôn.

    Chẳng hạn, bạn không nên có ý nghĩ cho rằng những thượng sư khác không can hệ đến bạn là những người ‘thứ yếu’, hoặc dù họ có bị giết hại cũng không sao vì bạn chẳng ưa thích gì họ! Đôi khi, nếu bạn càng yêu thương mạnh mẽ thì sự thù hận ghen ghét cũng càng mạnh mẽ - yêu ghét luôn đi đôi với nhau. Tuy nhiên, đây là thứ tình thương thế gian trần lụy. Vì chúng ta đang sống trong cõi thế tục, cũng khó tránh khỏi những vọng niệm xúc tình tiêu cực nhưng chúng ta phải nỗ lực tinh tấn tỉnh thức nhất tâm tu tập đừng để xao lãng.

    Điều tôi muốn nhắn gửi đến các bạn là dẫu cho một cách tương đối, bạn có thể xếp các bậc đạo sư của mình các vị trí thứ nhất, thứ nhì hay thứ ba về mặt tình cảm hoặc trong sự tu tập nhưng bạn vẫn luôn phải sùng kính các vị đạo sư một cách bình đẳng không chỉ là đạo sư của bạn. Còn nếu bạn có thái độ phân biệt thì điều đó có nghĩa bạn chưa thực sự hiểu biết chân thật về Thượng sư. Cái hiểu của bạn đã bị lệch lạc, nghĩa là bạn có thể chỉ ưa thích cá nhân vị đạo sư chứ không phải giáo pháp của Ngài. Sự ưa thích đó có thể sẽ gây rắc rối. Mặc dù nó có vẻ là một ý nghĩ hay ho và lãng mạn, nhưng cũng chính là một bước đi sai lệch đầu tiên. Nó dường như thật dễ chịu, lãng mạn, ngọt ngào, ấm áp và đầy màu sắc, nhưng hệ quả thì vô cùng đảo điên. Nó sẽ dẫn đến một mối liên hệ lệch lạc với đạo sư, một sự tu tập lầm lạc, và một Tăng đoàn hỗn loạn.

    Quan kiến thanh tịnh và tín tâm thanh tịnh cùng song hành

    Trong Phật Giáo Kim Cương Thừa Tây Tạng có câu: “Chừng nào bạn có tín tâm đối với thượng sư và giáo pháp của Ngài, chừng đó chắc chắn bạn cũng sẽ có được chính kiến thanh tịnh đối với chư vị thượng sư và mọi người khác.” Quan kiến thanh tịnh và tín tâm thanh tịnh luôn song hành với nhau. Nếu cái được gọi là tín tâm của bạn đối với đạo sư thực chất lại mang tính cảm xúc thì bạn sẽ không thể có được chính kiến thanh tịnh về bất kỳ người nào khác. Thay vào đó, bạn sẽ có tà kiến bất tịnh về các Rinpoche và đạo sư khác. Thật không may và đáng buồn thay, điều này lại đang diễn ra trong xã hội của chúng ta.

    Trong cộng đồng Phật Giáo, đặc biệt là trong cộng đồng Phật Giáo Tây Tạng, chúng ta có các trung tâm Phật Pháp, có các đệ tử, các vị lama, các bậc đạo sư không sống hòa hợp được với nhau. Nếu loại tà kiến này hiện hữu thì chắc chắn người đó không có tín tâm. Họ không có tín tâm cho dù họ rất yêu quý bậc thầy và luôn miệng nói: “Ôi, đức thượng sư của tôi, dòng truyền thừa của tôi, đạo tràng của tôi!” Có thể họ giúp đỡ được phần nào đó cho đạo tràng của mình nhưng điều đó không có nghĩa là họ có tín tâm chân chính về mặt đạo tâm. Dĩ nhiên, không có gì sai trái khi bạn có mối liên hệ tình cảm đối với người thầy và khi bạn muốn giúp đỡ Ngài, dòng truyền thừa hay trung tâm Phật Pháp của Ngài. Điều đó cũng tốt! Nhưng đây không phải là con đường chân thật để khai triển các mối nhân duyên liên kết song song với con đường tu trì đạo pháp.

    Phân định rõ ràng giữa lòng sùng kính tín tâm với cảm xúc là tương đối khó khăn. Tuy nhiên, tín tâm thanh tịnh cần phải được thiết lập trong mối tương quan với sự thực hành đạo pháp chứ không phải mang tính tôn giáo. Bất kỳ ai giáo dạy bạn về tăng trưởng đạo tâm và con đường tu tâm luôn là bậc vô thượng sư. Thế nhưng, mối liên kết với bậc thượng sư đó cần thuần khiết và dựa trên tín tâm thanh tịnh. Nếu có được điều này, không bao giờ có chuyện bạn nói những lời bất mãn, tiêu cựu về đạo sư của mình cũng như về bất kỳ vị đạo sư nào khác. Không bao giờ có chuyện đó xảy ra!

    Tại sao bạn lại nói những lời tiêu cực? Thậm chí về mặt sự tướng, bạn có thể chứng kiến rất nhiều, được nghe kể rất nhiều những điều tiêu cực đi chăng nữa, thì sao nào? Đó không phải là việc của bạn! Việc của bạn là tập trung tu dưỡng thực hành đạo pháp, những gì thượng sư đã truyền dạy cho bạn, vậy thôi! Tất cả những vấn đề khác của thượng sư là việc của Ngài. Cho dù Ngài có đang cố hủy hoại cả thế giới đi nữa thì cũng chẳng sao! Cứ để Ngài làm nếu có thể. Việc của bạn là kiểm soát những cảm thọ của mình, chuyển hóa chúng và trưởng dưỡng theo hướng tích cực để cuối cùng làm lợi ích cho vô lượng hữu tình. Nếu bạn nhất tâm tu hành như vậy, chính là đang phụng sự đạo sư và bản thân mình. Bạn đang phát triển cách sống chân chính và đang làm lợi lạc cho hết thảy chúng sinh. Cuộc đời bạn vì thế sẽ tràn đầy hạnh phúc, an lạc, thành tựu và mãn nguyện.

     SOURCE: TP

    Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII khai thị

     
    Read more »
  • Thiền Định Đại Toàn Thiện

    Kính lễ Đạo sư,

    Cái thầy và Thiền định Đại toàn thiện có thể được diễn giải bằng nhiều, nhiều cách, nhưng đơn giản việc duy trì tinh túy của sự nhận biết trong hiện tại gồm chứa tất cả chúng.

    Tâm của con không thể tìm thấy ở đâu khác.

    Nó chính là bản tính của sự suy nghĩ từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác.

    Hãy nhìn một cách trần truồng cốt lõi của sự suy nghĩ này và con sẽ  tìm thấy sự nhận biết hiện tại, ngay tại nơi con ở.

    Tại sao lại phải chạy theo các suy nghĩ, chúng chỉ là những gợn sóng bề mặt của sự nhận biết hiện tại?

    Hơn thế, hãy nhìn thẳng vào bản tính trần truồng, trống rỗng của các ý nghĩ; khi đó sẽ không có nhị nguyên, không người quan sát, không có gì được quan sát.

    Đơn giản chỉ nghỉ ngơi trong sự nhận biết hiện tại trong suốt và bất nhị này.

    Hãy như đang ở nhà mình trong trạng thái tự nhiên của sự đơn giản hiện diện, chỉ đang là, không làm cái gì đặc biệt cả.

    Sự nhận biết hiện tại thì trống rỗng, rộng mở và sáng tỏ; nó không phải là vật chất cụ thể, nhưng cũng không phải là không có gì cả.

    Trống rỗng, nhưng hoàn toàn nhận biết, sáng tỏ, tỉnh thức.

    Giống như, thật kỳ diệu, không bởi cố gắng để nó trở nên nhận biết, mà là nhận biết tự có, sự nhận biết liên tục hoạt động.

    Hai mặt này của sự nhận biết hiện tại hay Rigpa – tính trống rỗng của nó và tính nhận biết ( sáng tỏ) của nó – là không thể phân chia.

    Trống rỗng và sáng tỏ (nhận biết) là không thể chia tách.

    Chúng không có hình tướng, giống như không có gì cả, không nắm bắt được, không sinh ra, không mất đi; nhưng thoáng đãng, sáng rõ, sống động.

    Không có gì cả, nhưng thật tuyệt diệu!, tất cả mọi thứ được kinh nghiệm một cách kỳ diệu.

    Đơn giản là nhận ra nó.

    Nhìn vào tấm gương huyền ảo của tâm và thưởng thức sự trình diễn kỳ diệu vô tận này.

    Với sự chánh niệm liên tục, chú ý, duy trì sự nhận thức về tính giác trống rỗng, rộng mở, sáng tỏ.

    Đừng tu tập gì khác.

    Không có gì khác để làm, hoặc để sửa lại.

    Hãy để nó tiếp tục tự nhiên.

    Đừng làm hỏng nó bằng điều khiển, kiểm soát, can thiệp vào nó, hay lo lắng xem mình đang đúng hay sai, hoặc đang có sự thiền định tốt hay tồi.

    Hãy để nó như nó là, và nghỉ ngơi cái tâm mệt mỏi của mình.

    Sự sáng tỏ tối thượng của Pháp thân – sự thật tuyệt đối – thì không có gì hơn là chính bản tính của cái tâm bình thường không trù tính hay sắp xếp gì này.

    Đừng tìm Đức Phật ở đâu khác.

    Nó không là gì khác ngoài cái bản tính của sự nhận biết hiện tại này.

    Đó là vị Phật ở bên trong.

    Có vô số giáo pháp.

    Có vô số đối trị cho nhiều dạng khác nhau của các căn bệnh tâm linh.

    Có rất nhiều ngôn từ về giáo lý bất nhị của Đại Thủ Ấn và Đại Toàn Thiện.

    Nhưng gốc rễ, trái tim của mọi thực hành đã được bao gồm ở đây, đơn giản duy trì bản tính sáng tỏ tự nhiên của sự nhận biết hiện tại này.

    Nếu con tìm ở đâu khác một cái gì tốt hơn, một vị Phật siêu việt hơn sự nhận biết hiện tại này, con đang đánh lừa chính mình.

    Con đang bị trói buộc, vướng mắc vào dây gai của hi vọng và sợ hãi.

    Vì vậy hãy từ bỏ chúng! Đơn giản duy trì sự tỉnh giác hiện tại, khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác.

    Sự tận hiến, lòng từ bi và hoàn thiện các đức hạnh và trí tuệ là những phương pháp hỗ trợ quan trọng nhất để hoàn thành giáo lý bất nhị trần truồng này về sự nhận biết hiện tại, Pháp thân tự có.

    Vì vậy hãy luôn tận hiến mình cho việc thực hành giáo pháp để làm lợi lạc cho người khác và áp dụng thân, khẩu, ý của mình vào những gì đức hạnh và lành mạnh.

    Mong điều lành tăng trưởng.

    Mong mọi chúng sinh đều an lạc!

    Source: TP

    Đức Jamgon Kontrul Rinpoche đệ nhất. Jamgön Kongtrül Lodrö Thayé (1813-1899)

    Dịch bởi Rangxi Sangbo

     
    Read more »
  • Cửa THIỀN Tây Tạng

    Dưới đây là hai bản dịch về Thiền tập dựa theo truyền thống Tây Tạng.

    Hai bản văn này đang được phổ biến rộng rãi trong giới Phật Tử Tây Phương để đáp ứng nhu cầu Thiền tập. Các pháp tu dưới đây tuy được viết từ truyền thống Tây Tạng nhưng thực sự cũng đã ẩn tàng trong nhiều truyền thống Thiền tập khác của Phật Giáo.

    Bản văn đầu tiên là của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma.

    Bản văn thứ nhì là của Kadampa, một tông phái Tây Tạng đang có hơn 700 tự viện tại 36 quốc gia.

    1. Hướng Dẫn Thiền Tây Tạng

    "Tibetan Meditation Instructions" là một bản văn cô đọng về Thiền Tây Tạng do Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đời 14 viết cho ấn bản điện tử của Tricycle, một tạp chí Phật Giáo tại Hoa Kỳ. Nơi đây, ngài nói về pháp thiền này là hãy để tâm vào trạng thái tự nhiên, và hãy quán sát tâm này - mà tâm là một thực thể, theo ngài, có tánh sáng và tánh biết, nơi đó bất kỳ những pháp gì, hiện tượng gì, sự kiện gì trong thế giới xuất hiện với chúng ta cũng đều qua nhận biết của thức. Khi ngồi, tóm gọn, chỉ để tâm thả lỏng tự nhiên và nhìn vào tâm này, dần dần sẽ thấy bản tánh của tâm.

    (Bắt đầu bản văn)

    Trước tiên, hãy sửa soạn tư thế của bạn: xếp chân ở vị trí thoải mái nhất; xương sống thẳng như mũi tên. Ðặt hai bàn tay vào thế quân bình, khoảng cách chiều rộng bốn ngón tay dưới rún, với bàn tay trái ở dưới, bàn tay phải đặt trên, và các ngón cái chạm nhau để thành một hình tam giác. Tư thế này của các bàn tay có liên hệ với chỗ trong cơ thể, nơi nội nhiệt khởi lên. Nghiêng cổ xuống chút xíu, để miệng và răng như bình thường, với đầu lưỡi chạm vào vòm trên của miệng gần các răng phía trên. Hướng mắt nhìn xuống thả lỏng - không cần thiết phải nhìn vào chóp mũi; mắt có thể hướng về sàn nhà phía trước chỗ bạn ngồi, nếu điều này tự nhiên hơn. Ðừng mở mắt quá lớn mà cũng đừng nhắm mắt; hãy để mắt mở hé chút xíu. Ðôi khi mắt sẽ khép lại tự nhiên; thế cũng được. Ngay cả nếu mắt đang mở, khi ý thức chú tâm đều đặn vào đối tượng, các hiện tướng của nhãn thức sẽ không quấy rối bạn.

    Với những người mang kính, bạn có ghi nhận rằng khi gỡ kính ra, bởi vì mắt thấy ít rõ ràng cho nên sẽ ít cơ nguy hơn từ sự sinh khởi kích động, trong khi có thêm cơ nguy của sự lơi lỏng? Bạn có thấy có dị biệt giữa việc hướng mặt vào tường và không hướng vào tường? Khi hướng vào tường, bạn có thể thấy là có ít cơ nguy của sự kích động hay tán tâm? Qua kinh nghiệm, bạn sẽ quyết định sao cho thoải mái, dễ an tâm...

    Hãy cố gắng để tâm trong trạng thái tự nhiên một cách sinh động, không nghĩ gì về chuyện quá khứ hay về chuyện bạn tính làm trong tương lai, không khởi lên bất kỳ một khái niệm nào. Ý thức của bạn đang ở nơi đâu? Nó [ý thức] đang ở với đôi mắt hay ở đâu? Nhiều phần, bạn sẽ cảm thấy nó [ý thức] liên kết với đôi mắt, bởi vì chúng ta khởi lên hầu hết nhận thức về thế giới này là xuyên qua mắt thấy. Ðiều này là do dựa quá nhiều vào cảm thức của chúng ta. Tuy nhiên, sự hiện hữu của một ý thức riêng biệt có thể biết chắc được; thí dụ, khi chú tâm hướng về âm thanh, thì những gì xuất hiện qua nhãn thức không được ghi nhận. Như thế cho thấy một ý thức riêng biệt đang chuyên chú hơn vào âm thanh nghe qua nhĩ thức, hơn là ảnh của nhãn thức.

    Với tu tập kiên trì, ý thức có thể được nhận ra hay được cảm nhận như một thực thể của ánh sáng thuần khiết và của tánh biết, mà đối với nó bất kỳ thứ gì cũng có khả năng để xuất hiện ra, và nó [ý thức], khi các điều kiện thích nghi hội đủ, có thể được sinh khởi trong hình ảnh của bất kỳ đối tượng nào. Khi nào mà tâm không đối phó với khái niệm về ngoại cảnh, tâm sẽ an trú rỗng không mà không có gì xuất hiện trong nó, hệt như nước trong. Thực thể của nó [tâm] là thực thể của kinh nghiệm thuần túy. Hãy để tâm trôi chảy tự nhiên mà đừng phủ lên khái niệm nào. Hãy để tâm an nghỉ trong trạng thái tự nhiên của nó, và quan sát nó. Lúc đầu, khi bạn chưa quen với pháp này, nó thật là khó, nhưng dần dần tâm xuất hiện như nước trong. Rồi thì, hãy hãy an trú với tâm không bị thêu dệt này, mà đừng để khái niệm nào sinh khởi. Khi chứng ngộ bản tánh của tâm, chúng ta sẽ lần đầu tiên định vị được đối tượng của quan sát của loại thiền nội quan này.

    Thời gian tốt nhất để tập pháp thiền này là vào buổi sáng, tại một nơi im vắng, khi tâm rất trong suốt và tỉnh táo. Ðêm trước đó, nhớ đừng ăn nhiều quá hay ngủ nhiều quá; như thế sẽ làm cho tâm nhẹ hơn và nhạy bén hơn vào buổi sáng kế tiếp. Dân dần, tâm sẽ trở nên càng lúc càng an bình; sự tỉnh thức và trí nhớ sẽ trở thành rõ ràng hơn.

    (Hết bản văn)

       

    2. Pháp Thở Ðơn Giản

    Bản Anh ngữ "A Simple Breathing Meditation" là một cẩm nang về bước đầu tập thiền của Kadampa, một tông phái Tây Tạng đang có hơn 700 tự viện tại 36 quốc gia. Nguyên khởi, Ðại sư Atisha (982-1054) từ Ấn Ðộ sang Tây Tạng, đã sáng lập tông phái Kadampa, với pháp tu Lamrim, chuyển hóa tất cả mọi hoạt động thường ngày vào con đường chứng ngộ giải thoát. Pháp Thở Ðơn Giản là bước đầu thiền tập, và có thể dùng cho mọi truyền thống khác.

    (Bắt đầu bản văn)

    Giai đoạn đầu tiên của thiền là ngưng loạn tâm, và làm tâm chúng ta trong trẻo hơn, sáng tỏ hơn. Ðiều này có thể thành tựu bằng cách tập pháp thở đơn giản. Chúng ta chọn một nơi im vắng để thiền tập, và ngồi trong một tư thế thoải mái. Chúng ta có thể ngồi trong tư thế tréo chân truyền thống, hay trong bất kỳ tư thế nào khác mà mình thấy thoải mái. Nếu muốn, chúng ta có thể ngồi ghế. Ðiều quan trọng nhất là giữ lưng cho thẳng để giữ tâm khỏi bị buồn ngủ hay trì trệ.

    Chúng ta ngồi với hai mắt khép một chút thôi, và chú tâm vào hơi thở. Chúng ta thở tự nhiên, tốt nhất là thở qua lỗ mũi, đừng tìm cách kiểm soát hơi thở, và chúng ta chú tâm vào cảm thọ về hơi thở khi hơi thở vào và ra hai lỗ mũi. Cảm thọ này là đối tượng thiền tập của chúng ta. Chúng ta nên cố gắng tập trung vào nó, và gác bỏ mọi thứ khác.

    Thoạt tiên, tâm chúng ta sẽ rất bận rộn, thậm chí có thể cảm thấy rằng thiền tập đang làm cho tâm chúng ta bận rộn hơn, nhưng trên thực tế chúng ta chỉ đang ý thức hơn về mức độ bận rộn biến chuyển mà tâm chúng ta đang thực sự hiện hành. Sẽ có một sức lôi cuốn lớn để dẫn [chúng ta] theo các niệm khác nhau khi nó hiện khởi, nhưng chúng ta nên chống lại [lôi cuốn đó] và cứ tập trung nhất tâm vào cảm thọ về hơi thở. Nếu chúng ta thấy là tâm chúng ta lang thang và chạy theo các niệm, chúng ta nên tức khắc trở về với hơi thở. Chúng ta hãy làm thế liên tục khi cần thiết, cho tới khi tâm an trú vào hơi thở.

    Nếu chúng ta kiên nhẫn tập cách này, dần dần các niệm lung tung sẽ lắng xuống và chúng ta sẽ kinh nghiệm một cảm thọ về sự an tĩnh trong tâm và sự thư giãn. Tâm chúng ta sẽ cảm thấy sáng rõ và như rộng lớn bát ngát, và chúng ta sẽ cảm thấy như được tươi mới. Khi biển dậy sóng, cặn sẽ cuốn lên và nước sẽ đục ngầu, nhưng khi gió êm thì bùn dần dần lắng xuống và nước nhìn rõ trong suốt. Tương tự, khi dòng niệm không ngừng tuôn của chúng ta được an tĩnh nhờ tập trung vào hơi thở, tâm chúng ta sẽ trở thành trong suốt và sáng tỏ dị thường. Chúng ta nên ở trong trạng thái an tĩnh tâm thức này một thời gian.

    Mặc dù thiền tập hơi thở chỉ là bước đầu thiền tập, nó có thể rất là mãnh liệt. Chúng ta có thể thấy từ pháp tu này là chúng ta có thể đạt được an tĩnh nội tâm và sự an lạc chỉ bằng cách kiểm soát tâm, mà không dựa vào bất kỳ điều kiện bên ngoài nào. Khi dòng niệm lắng xuống, và tâm chúng ta tịch tĩnh, một niềm hạnh phúc sâu thẳm và sự an lạc tự nhiên khởi lên. Cảm thọ về sự an lạc và sự sung mãn giúp chúng ta đối phó với sự bận rộn và khó khăn của đời sống thường nhật. Quá nhiều căng thẳng thường đến từ tâm chúng ta, và nhiều vấn đề chúng ta trải qua, kể cả bệnh hoạn, gây ra hay bị làm trầm trọng thêm bởi sự căng thẳng này. Chỉ bằng cách thiền tập hơi thở trong 10 hay 15 phút mỗi ngày, chúng ta sẽ có thể giảm sự căng thẳng. Chúng ta sẽ kinh nghiệm một cảm thọ tịch tĩnh, bao la bát ngát trong tâm, và nhiều vấn đề thường gặp của chúng ta sẽ biến mất. Các hoàn cảnh gian nan sẽ dễ dàng hơn để đối phó, chúng ta sẽ tự nhiên cảm thấy nồng ấm và cởi mở với người khác, và quan hệ của chúng ta với người khác sẽ dần dần thăng tiến.

    Đừng tìm về quá khứ
    Đừng tưởng tới tương lai
    Quá khứ đã không còn
    Tương lai thì chưa tới
    Hãy quán chiếu sự sống
    Trong giờ phút hiện tại
    Kẻ thức giả an trú
    Vững chãi và thảnh thơị
    Phải tinh tiến hôm nay
    Kẻo ngày mai không kịp
    Cái chết đến bất ngờ
    Không thể nào mặc cả.
    Người nào biết an trú
    Đêm ngày trong chánh niệm
    Thì Mâu Ni gọi là
    Người Biết Sống Một Mình.

    Read more »
  • Tại sao phải cúng SAO giải hạn?

     

    CÚNG SAO

    Sao trời có mặt tại tâm...Chơn như pháp giới, sao gì cúng đây?

    Thật sự PHÀM là người có phước đức xưa kia đã thực hành 5 điều thiện nhiều kiếp sống, nên hội đủ nhân duyên SANH LÀM NGƯỜI...Ờ thế gian có hai loại người.

    1-Một loại người tùy theo phước đức mà có được THÂN NGƯỜI.
    2-Còn một loại ĐẦY ĐỦ CÔNG ĐỨC vì ĐẠI BI TÂM thị hiện gần gũi chúng sanh tùy duyên ra vào làm AN LẠC chúng sanh...đó la những vị BỒ TÁT.

    Ở đây chỉ nói về thành phần thứ 1 có được thân người...Nghèo Giàu, Danh Vọng. v.v...tất cả những gì chúng ta có được ngày hôm nay do THIỆN ÁC gieo trồng hạt giống trong quá khứ, tùy theo hoàn cảnh địa dư NHÂN DUYÊN đầy đủ sẽ  thọ lảnh VUI BUỒN....Nên việc cúng giải SAO hay cúng kiến đễ được có nhiều LỢI LỌC v.v....là KHÔNG HỢP với ĐỊNH LUẬT NHÂN QUẢ. Người Phật Tử phải NẮM RÕ ĐIỂM THEN CHỐT  TRÁNH SỰ MÊ LẦM GIEO TRỒNG THÊM HẠT GIỐNG BẤT THIỆN....Thật ra KHÔNG CÓ CHUYỆN CÚNG GIẢI SAO HẠN XUI XẺO được TỐT CẢ....VIỆC làm này là MA ĐẠO.

    Phương pháp tốt nhất, nếu Phật Tử nằm trong chu kỳ không được may mắn, nên CHUYỂN HÓA THÂN TÂM HƯỚNG VỀ CỬA THIỆN...ví dụ như THỰC HÀNH 1 trong 6 HẠNH LỤC ĐỘ ( Bố thí, Trì giới...v.v...hay Tụng Kinh, Niệm Phật ). CHẮC CHẮN SẼ CÓ NIỀM VUI. Ngoài con đường này sẽ KHÔNG CÓ PHƯƠNG PHÁP NÀO HÓA GIẢI NHÂN BẤT THIỆN ĐÃ và ĐANG GIEO...

    Cho nên đừng tin vào CÚNG SAO GIẢI NẠN. Việc đời quá nhiều PHIỀN NẢO, không nên tạo them phiền phức tốn công sức, tiền của làm việc PHI LÝ.  " Ngài Chu Mạng Quỷ Vương Bồ Tát coi về tuổi thọ của chúng ta, có dạy những điều liên quan đến cuộc sống…

    Nếu người MẸ trong lúc có THAI...nên LÀM những việc THIỆN – QUA NHIỀU HÌNH THỨC KHÔNG NGOÀI  THÂN KHẨU Ý...Như việc Bố Thí, cúng dường,...Khi người MẸ trong lúc SANH đứa bé sẽ được CHƯ VỊ THÁNH HIỀN HỘ TRÌ người Mẹ và đứa con...Nếu đứa con có NGHIỆP ĐỜI TRƯỚC NẶNG cũng HÓA GIẢI được nhiều hoặc người Mẹ SANH ĐẼ không có nhiều CHƯỚNG DUYÊN...Đứa bé sẽ được KHỎE MẠNH, TUỔI THỌ được tăng, THÔNG MINH....cuộc sống đở KHỔ...."

    Quý Phật Tử nên dành phương tiện, GIEO HẠT GIỐNG BỒ ĐỀ không nên phung phí CÚNG SAO GIẢI XUI, NĂM THÁNG v.v...Hảy ý thức ĐỊNH LUẬT NHÂN QUẢ không THA THỨ bất luân là ai...Khi còn SANH DIỆT TRONG 3 CỎI phải cố gắng hướng TÂM về cửa thiện, làm nhiều việc thiên, tạo phương tiện gần thiện tri thức học lời Phật & Bồ Tát tránh làm việc ÁC qua mọi hình thức liên quan đến Thân - Khẩu - Ý, chắc chắn sẽ có niềm vui ngay trong kiếp sống nhiều phiền nảo. 

    Hãy vui vẽ những gì đang có...Cuộc sống thế gian chỉ là GIẢ HỢP, tất cả chỉ là VAY MƯỢN, ngay cả HƠI THỞ cũng không thật,  Nên phải khéo phương tiện, thiện xảo thực hành PHÁP vượt qua PHIỀN NẢO, có được cuộc sống AN LẠC THÂN TÂM....

    LƯU Ý: HIỆN NAY TẠI QUÊ HƯƠNG, HẦU HẾT CÁC CHÙA, AM MIẾU ĐỀU CÓ DỊCH VỤ THƯƠNG MAI CÚNG SAO GIẢI TRỪ NGHIỆP CHƯỚNG.

    PHẬT TỬ ĐẾN CHÙA NIỆM PHẬT CÚNG DƯỜNG HỌC PHẬT TUYỆT ĐỐI KHÔNG NÊN MÂU THUẨN GIỮA CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN HẠNH PHÚC AN LẠC  VÀ CÚNG SAO GIẢI NẠN. ĐÓ VIỆC LÀM CỦA MA SỰ.

    MONG RẰNG QUÝ THẦY -  CÔ KHAI THỊ PHẬT TỬ BỎ Ý NIỆM MÊ LẦM ĐẾN CHÙA CÚNG SAO GIẢI NẠN, TẠO PHƯƠNG TIỆN PHẬT T PHÁT BĐ TÂM VƯỢT KHỎI VÔ MINH NGHIỆP CHƯỚNG TR V CHƠN TÂM THƯỜNG TRÚ.

    Vui chơi trong cỏi diêm phù
    Tối trưa danh lợi có không nhức đầu
    Dầu ai phước đức cỏi trần
    Thân tâm hũy hoại địa đàn khó qua
    Phật trời Bát Nhã hướng Đông
    Thuyền kia hướng thẳng Nhất Đà tâm tâm...

    ------------------------o0o-----------------------------

     

     

     

    Read more »
  • BÙA PHÉP. Ích Lợi hoặc Hại như thế nào?

     

     

    BÙA CHÚ

     

    Bài viết này có giới hạn, chư Phật Tử trước khi dấn thân vào con đường LUYỆN BÙA CHÚ, phải suy gẩm về sư LỢI HẠI hiện tại chính bản thân mình và những người chung quanh, sự lợi ích như thế nào ?.

    Bùa chú cho dù luyện tới đâu KẾT QUẢ SẼ ĐỌA vào Địa Ngục, ngay trong kiếp sống còn hơi thở ra vào. Chết, con đường địa ngục sẽ mỡ rộng ra giống như Quốc Lộ 1A. Nguyên nhân hầu hết các loại Bùa Chú, căn bản là TÁNH ÁC…, ví dụ như Bùa Lổ Bang, Bùa 5 ông, Thiên Linh Cái v.v, thường người luyện bùa phép nói rất hay, nào là dùng bùa để trị bá bệnh, kêu hồn nhập xác, người bị nhập, người có xác, cả hai đều giảm phước đức, thiên hạ đâu ai hay biết. Thậm chí có mấy ông Thầy Pháp còn đọc Chú, để trục hồn hay Bắt Ma trừ Quỷ dử. Thật ra khi họ đọc những câu  Chú được truyền nhiều đời qua những vị thầy đều không hay biết tánh ác của tự câu chú. TẤT CẢ NHỮNG CÂU CHÚ THUỘC CẢNH GIỚI BÙA CHÚ LÀ KÊU QUỶ, MA, PHỤC VỤ LÀM VIỆC CHO HỌ, VÌ NẾU NHỮNG CHÚNG SANH QUỶ MA ĐÓ KHÔNG LÀM VIỆC CHO HỌ, SẼ BỊ HÌNH PHẠT KHỦNG KIẾP…TUY NHIÊN MẤY ÔNG THẦY PHÁP NÓI LÁO KHOÉT NÀO LÀ ĐƯA HỌ ĐI TU, HAY VỀ CẢNH GIỚI PHÂT CHÚA V.V….

    Hiện nay, tại VN rất nhiều nơi luyện BÙA CHÚ, đặc biệt là Bùa Lổ Bang, hoặc Bùa Con Khỉ ( Thầy Pháp gọi bùa này tên là LỤC TỀ ) v.v….Ngay cả nhiều nơi TÍN NGƯỠNG cũng có những vị tự xưng học Phật, học Chúa hay những tôn giáo khác cũng tư xưng nào là QUYỀN NĂNG BỀ TRÊN BAN CHO, đễ làm lợi lạc chúng sanh…THẬT ĐÁNG TIẾT sao mà VỌNG MÊ ÍT VẬY.

    Thời kỳ lẫn lộn thiện ác đều có đầy đủ, khi bước chân ra khỏi nhà. Quý Phật Tử cẩn thận THÂN KHẨU Ý, chớ làm mích lòng với mọi người chung quanh, bằng không sẽ gặp nhiều điều tai họa như THƯ ẾM v.v….Một khi, đã bị dính Bùa Chú vào thân, nhẹ thì bán nhà cữa ruộng đất để trị bệnh…Nặng thì sẽ theo ông bà, nên phải KHÉO PHƯƠNG TIỆN làm chúng sanh AN LẠC.( Bản thân mình và mọi người chung quanh.) NẾU ĐÃ DÍNH BÙA CHÚ, TRÙ ẾM phương pháp tốt nhất là nên tìm một vị CAO TĂNG có đức hạnh ( Bồ Đề Tâm ) hộ trì, TRÌ CHÚ, hay TỤNG KINH, CÚNG DƯỜNG BỐ THÍ may ra mới có thể tránh khỏi tánh mạng…CẨN THẬN !

    Phật Tử nên ĐOẠN TRỪ BÙA PHÉP hoặc  vẽ BÙA để được MAY MẮN, LÀM ĂN v.v....STOP...Phật Tử có thể tìm kinh Địa Tạng Vương HỌC và HIỂU thêm về Định Luật NHÂN QUẢ

    Thiền môn nhập phật soi đường
    Bùa cao chú nghiệp ác ma xa lìa
    Chư hồng phật tử suy tư
    Chân sau chân trước Hồng Danh Phật Đà
    Mạt thời Pháp Nhật Như Như
    Có không cao thấp kiếp trần thoáng qua
    A Di Đà Phật tưởng về
    Sen vàng nhị trắng, hành trì ba hơi

    ------------------------o0o------------------------------------------

    Phật Tử thành tâm NIỆM câu kinh dười đây CHẮC CHẰN sẽ thông suốt hiện tượng TỐT XẤU. Không cần phải HỌC BÙA CHÚ gì tùm lum....

    Úm tát phạ nhạ, Sát đát ra sam ma duệ thất lị duệ.
    Phiến để ca câu lô tát bà ha.

    LƯU Ý:

    DÙNG BÙA CHÚ HẠI NGƯỜI HAY GIÚP NGƯỜI SẼ BỊ ĐỌA VÀO VÔ GÁNG ĐỊA NGỤC, CỮU HUYỀN THẤT TỔ SẼ BỊ ẢNH HƯỞNG RẤT NẶNG TRÊN CON ĐƯỜNG VẢNG SANH VỀ CẢNH GIỚI HẠNH PHÚC.

    PHẬT TỬ NẾU BỊ BÙA CHÚ HẠI, THƯỜNG CÓ NHỮNG HIỆN TƯỢNG NHỨC ĐẦU, TỐI NGŨ GẶP NHIỀU ÁC MÔNG, HAY BỤNG PHÌNH LÊN, HOẶC NÓNG TRONG NGƯỜI, HAI CON MẮT ĐỎ QUÉT, CHIỀU ĐẾN BỊ LẠNH V.V.ĐI BÁC SĨ KHÁM KHÔNG RA BỆNH, ĐẾN CHÙA THÌ KHÔNG THÍCH HAY SƠ SỆT, THƯỜNG LÀM VIỆC ÁC..… GIA ĐÌNH BỊ TAI ƯƠNG, NHIỀU CHUYỆN XUI XẼO V.V..

    PHƯƠNG PHÁP HÓA GIẢI:

    ÚM BÊNH DA, SA TÔ HUM…THÀNH TÂM NIỆM CÂU CHÚ SẼ TỪ TỪ HÓA GIẢI, CHẮC CHẮN SẼ ĐƯỢC KHỎI BỆNH VÀ NHIỀU ĐIỀU TỐT LÀNH ĐẾN VỚI BẢN THÂN VÀ GIA ĐÌNH….

    KÍNH CHÚC QUÝ PHẬT TỬ NƯƠNG VÀO THIỆN CĂN CỦA MÌNH ĐANG CÓ CHUYỄN HÓA THÂN TÂM TRỞ VỀ CHƠN TÂM THƯỜNG TRÚ.

     

     

     

    Read more »
RSS