Niệm Phật Đường
Welcome
Login / Register

Tantric scriptures - Mật Giáo


  • Mật Tông Trì Chú

    Đây là một pháp tu bí mật của Phật giáo, dạy về cách “bắt ấn”, “trì chú” v.v...

    Pháp tu nầy có tính chất liễu nghĩa (trọn đủ), căn cứ vào nơi tâm pháp bí truyền.

     

    Trong các pháp môn mà Phật đã chỉ dạy cho chúng sanh nương theo tu tập trong thời buổi “Mạt Pháp” sau nầy, hành môn nào cũng đều có một tôn chỉ thù thắng vi diệu.

    Ví dụ như :

    ·                                 Bên Tịnh Độ lấy tôn chỉ :

    “Một đời vãng sanh, được bất thối chuyển” làm tông.

    ·                                 Bên Thiền Tông lấy tôn chỉ :

    “Chỉ thẳng lòng người, thấy tánh thành Phật” làm tông.

    ·                                 Bên Hoa Nghiêm lấy tôn chỉ :

    “Lìa thế gian, nhập pháp giới” làm tông.

    ·                                 Bên Pháp Hoa lấy tôn chỉ :

    “Phế  huyền, hiển thật” làm tông.

    Và riêng :

    ·                                 Bên Mật Tông  lấy tôn chỉ:

    “Tam mật tương ưng, tức thân thành Phật” làm tông v.v...

    Tam mật là:  Thân mật - Khẩu mật  - Ý mật

     

    Tóm lại, pháp môn tuy nhiều và tôn chỉ khác nhau, nhưng tựu trung rồi cũng quy về một mục đích duy nhất là giải thoát khỏi sanh tử luân hồi mà thôi.

     

    Nay xin nói sơ qua về “Mật Tông”. Gọi là “Mật”, vì đây là một hành môn thuộc về “Bí-Mật Pháp-Môn”, chuyên dạy về cách trì Chú, bắt Ấn, nên phải có Sư thừa (tức người truyền dạy).

     

    1.              Sao gọi là Trì ?

    TRÌ có nghĩa là giữ hoài (trì giữ) không cho mất, không cho quên.

    2.              Sao gọi là Chú ?

    CHÚ nói cho đủ thì là Thần Chú, là lời bí mật. Nay để cho tiện, nên gọi tắt là “Chú”,

    Có người không hiểu, nói rằng :

    Thần Chú là của Thần đạo thuyết ra. Đó là trật, là sai lầm.

    ·                                 Chữ THẦN nơi đây có nghĩa là “thần thông, linh thông, biến hoá”.

    ·                                 Chữ CHÚ thì còn được gọi là CHÂN NGÔN.    

    Những câu Thần Chú của chư Phật và Bồ Tát thuyết ra có oai lực và công đức không thể nghĩ bàn. Ta phải nên phân biệt giữa TRÌ Chú và NIỆM Chú.

    ·                                 TRÌ Chú :

    Tức là 1 câu Chú phải được lập đi lập lại liên tục từ vài trăm biến (trăm lần) trở lên, thì mới được gọi là trì. Còn chỉ đọc 3 câu, 7 câu, thì là niệm, chứ không được gọi là trì.

    ·                                 TỤNG Chú hoặc NIỆM Chú :

    Tức là chỉ lướt qua có một lần mà thôi. Chẳng hạn như “Thập Chú Lăng Nghiêm” sáng được tụng lướt qua có 1 lần thôi, chứ không có tụng lần thứ 2, thứ 3.

    Thần Chú tiếng Phạn gọi là Dhàrani (Đà ra ni), tiếng Hán dịch là Tổng Trì, tiếng Anh gọi là Mantra.Vì bao gồm vô lượng pháp, nên gọi là “Tổng”, vì giữ chứa vô lượng nghĩa, nên gọi là “Trì”. Thần Chú mang ý nghĩa bao trùm (tổng) tất cả Pháp, gìn giữ (trì) tư tưởng cao thượng từ vô lượng diệu nghĩa của nội tâm. Câu "Thần Chú" là cả một “Tâm Ý” của chư Phật, Bồ Tát đối với chúng sanh.

     

    Ý nghĩa của Thần Chú thì cực kỳ bí mật, không ai hiểu được, ngoại trừ bổn tôn (vị chủ) của Thần Chú đó và chư Phật mới biết được mà thôi.

     

    Có ba loại Ðà ra ni, đó là : Một chữ, nhiều chữ, và không chữ (vô tự).

     

    Thần Chú của Phật khác với của Tà đạo. Chú của Phật có công năng phá tà lập chánh, tiêu diệt nghiệp ác, phá được vọng tưởng tà quấy, phát sanh trí huệ, tăng trưởng phước đức căn lành, ngăn trừ tội lỗi, cứu mình độ người thoát khỏi ma nạn, nhất là cứu độ cho vong linh được siêu thoát một cách tuyệt diệu và hy hữu, đưa người từ cõi Phàm đến cõi Thánh nhanh chóng, gần gũi cùng cảm ứng đạo giao với Phật, Bồ Tát, Thánh Thần và thành tựu được đạo quả.

     

    Còn Thần Chú của Tà đạo chỉ làm hại người, hại vật, gieo tai họa cho người, chết phải đọa vào 3 ác đạo.

    Thần Chú tuy không có thể giải nghĩa ra được, nhưng nếu chí tâm, thành kính thọ trì, thì sẽ được công hiệu kỳ diệu khó thể nghĩ bàn. Cũng giống như người uống nước, cảm giác ấm hay lạnh thì chỉ người đó tự biết – còn người khác thì không cách chi biết được, cũng không hiểu hoặc không tin được. Phần công hiệu của việc trì Chú cũng vậy, chỉ riêng người chuyên trì Chú mới biết rõ nó hiệu nghiệm như thế nào mà thôi !

    Thường thì một câu Thần Chú hay thâu gồm hết một bộ Kinh. Vậy cũng đủ hiểu hiệu lực, công đức của câu Thần Chú mà Phật nói ra không thể nghĩ bàn.

    Thí dụ như :

     

    1.              Bộ Kinh ĐẠI BÁT NHÃ gồm có 600 quyển, mà chỉ có một câu Thần Chú gom hết 600 cuốn Đại Bát Nhã. Đó là câu :

    Yết đế, yết đế ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

    2.              Kinh ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI kết lại hết 85 câu Chú :

    Án, tất điện đô mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.

    3.              Nguyên cuốn Kinh CHUẨN ĐỀ kết lại câu :

    Án chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha.

    4.              Kinh LĂNG NGHIÊM gồm có 9 cuốn, kết lại trong câu :

    Án, a na lệ tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàn ni phấn hổ hồng đô lô ung phấn, ta bà ha.

    5.              Kinh PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI v.v… thì cũng y như vậy.

    Lại nữa, phải nên biết :

    Câu CHÂN NGÔN (Thần Chú) đây thuộc về “bất tư nghì thần lực”.

    Còn :

     

    Câu NIỆM PHẬT thì thuộc về “bất tư nghì công đức”.

    Cả hai, một MẬT, một TỊNH đồng chung nguồn gốc mà sanh ra, đều có năng lực đưa hành giả về nơi Tịnh Độ (nói chung) và vãng sanh về cõi CỰC LẠC (nói riêng), chứ không phải :

    Trì Chú thì không được vãng sanh. Chỉ chuyên Niệm Phật mới được vãng sanh !

     

    Nay Tổ Sư Thích Thiền Tâm đã phối hợp cả hai phần (MẬT và TỊNH) lại thì sự kiến hiệu càng tăng thêm gấp bội. Cái tâm “lực” đưa tới Cực Lạc sẽ nhanh chóng, an lành không bị trắc trở.

    Như VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI Ðà ra ni,

    ·                                 Tụng một biến thì tất cả các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác thảy đều tiêu diệt.

    ·                                 Tụng 3 biến, tất cả tội chướng đều được tiêu trừ.

    ·                                 Tụng 7 biến thì dù cho hàng thiện nam, tín nữ tại gia phạm giới căn bản, hàng Tăng Ni phạm tội tứ khí, bát khí và các trọng giới khác, đều trở lại được giới phẩm thanh tịnh.

    Hành giả khi kết Ấn tụng trì Thần Chú nầy liền được chư PHẬT phóng quang tụ nơi đỉnh đầu và được các Ngài nhiếp thọ.

     

    Tụng đến 1 vạn biến (10.000 lần), tâm Bồ Đề (tâm Phật) hiển hiện trong thân không quên mất.

    Người trì niệm dần dần thể nhập vào tịnh tâm tròn sáng, trong sạch, mát mẻ như trăng thu, tiêu tan hết tất cả phiền não. Khi lâm chung sẽ thấy đức A DI ĐÀ Như Lai, cùng với vô lượng trăm ngàn ức chúng BỒ TÁT đến vây quanh, an ủi, bao che và tiếp dẫn. Ðương nhân liền được sanh về một trong 9 phẩm sen ở cõi Cực Lạc. (Xin xem Kinh Niệm Phật Ba La Mật).

     

    Nói về LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƠN NGÔN:

    Um, Mani Padmé Hùm

     

    (Hán dịch theo Phạm-âm là : “Án ma ni bát di hồng ) tuy chỉ có sáu chữ ngắn ngủi thôi, nhưng oai lực lớn không thể nghĩ bàn (tương đương với oai lực của chú Đại Bi), vì cả 2 chú  (Đại Bi và Lục Tự Đại Minh) nầy là một sự “tổng hợp” của đức Quán Thế Âm Bồ tát cùng của rất nhiều chư Phật, đã mang hết cả “tâm ý” của Bồ Tát và của chư Phật, giúp cho chúng sanh giải tất cả nạn, tiêu ác nghiệp, dứt trừ bệnh nghiệp, được sự vô úy (không còn sợ sệt trước mọi hoàn cảnh) và được tất cả sự mong cầu (tương đương với “phước, đức” của mình, nhưng phải chánh đáng).

     

    Oai lực của chú ĐẠI BI và chú LỤC TỰ có thể dời non, lấp biển, chuyển nắng hạn thành mưa, chuyển gió bão thành nắng ấm, có khả năng đưa người ra khỏi địa ngục, và đưa người lên cõi Trời, cõi Phật, thoát khỏi 3 ác đạo.

     

    Thì ngoài “Bổn Tôn” (tức là vị chủ) của câu Thần Chú, Đức Quán Thế Âm Bồ Tátchư Phật ra, không ai hiểu được công năng và nghĩa lý ảo bí của nó (kể luôn tất cả các đại Bồ Tát khác ở 10 phương cũng không hiểu thấu được)...

     

    Có số người không hiểu rõ điều trên, nên đã phí công dịch giải ra nghĩa ý, vô tình làm mất đi phần công lực của Chú. Nhất là lại dùng tâm “phân biệt” (chú nầy đúng, chú kia sai, chú nầy mạnh, chú kia yếu, chú nầy dài chú kia ít. v.v…) mà trì Chú, thành ra trì Chú hoài mà vẫn không có kết quả gì mấy.

     

    Từ trước đến nay, các hàng Phật Tử Trung Hoa, Việt Nam, v.v... khi đọc tụng Thần Chú đều có chút phần hơi trại, so với Phạn Âm (tức âm của chữ Sanskrit, Bắc Ấn Độ), nhưng việc ấy không quan ngại gì, miễn là dùng “tâm chí thành, tin tưởng” khi trì niệm, thì cũng vẫn được hiệu nghiệm như thường.  

             

    Trong Kinh “Ðại Bi”, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát có dạy :

    “Người nào đối với Ðà-Ra-Ni nầy sanh lòng nghi không tin, phải biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích...”

    Cho nên, muốn được hiệu nghiệm trên đường tu mật tông thì điều bí quyết là chớ nên khởi lòng nghi ngờ, phân biệt đúng sai, hoặc hiểu nghĩa hay không hiểu nghĩa, khinh báng chi cả. Dù cho lòng “nghi” ấy nhỏ như hạt bụi đi chăng nữa, quyết cũng “chẳng nên có”. Cứ một lòng chặt dạ y theo đó mà hành trì thì được gọi là trì Chú “đúng như pháp” vậy, vì chư Phật, Bồ Tát vốn không bao giờ vọng ngữ (nói lời dối gạt).  

     

    May mắn cho chúng ta trong kiếp này còn gặp được chánh pháp, còn học được chánh pháp, được minh sư thiện hữu chỉ dạy cho phương cách trì Chú để giải nghiệp tội. Nếu vẫn còn cố chấp không chịu tu, thì thử hỏi kiếp sau cái chấp sẽ còn nặng như thế nào ? Mà đã cố chấp thì khó mà có được trí huệ để làm được những điều tốt lành. Kiếp nầy đã có tâm bỏn xẻn, nghi kỵ rồi, kiếp sau hết phước, sẽ ra sao ?

     

    Cho nên, rất mong quý bạn đồng tu phải cố gắng lên, tinh tấn trì Chú, niệm Phật, và phải “tận tâm, tận lực, tận cường”, tu hành để chắc thêm phần vãng sanh cho mình, thì mới mong thoát ly sanh tử luân hồi, thành tựu được đạo quả. Làm được như vậy mới không phụ lấy chính mình, và trả được ơn sinh thành, dưỡng dục của Cha Mẹ nhiều đời nhiều kiếp, đúng với câu :

     

    Nhất nhân hành đạo cửu huyền thăng. Trước độ mình, sau độ người, và độ khắp thế nhân.”

     

    Chúng ta ai cũng muốn lo lắng cho cha mẹ mình luôn được đầy đủ phần vật chất. Nhưng, dù làm được trọn vẹn mấy đi nữa, cũng chỉ là trả “Tiểu Hiếu” mà thôi, vì đó chỉ là giúp cho Cha Mẹ tạm thời bớt khổ, chứ không cách chi giúp cho Cha Mẹ thoát khỏi sự khổ của sanh tử luân hồi. Chi bằng, nếu ta nỗ lực tinh tấn tu hành theo pháp môn Mật Tịnh nầy, lại biết khuyên Cha Mẹ, gia đình, bạn bè v.v… tu hành như mình, thì sẽ được vãng sanh về Cực Lạc trở thành bậc Bồ Tát sau khi mạng chung. Chừng đó thì quay lại cõi này để độ hết Cha Mẹ nhiều đời nhiều kiếp v.v… trả “Đại Hiếu” !

     

    Chúng ta đang trong thời kỳ Tháp Tự Kiên Cố bước qua thời kỳ Đấu Tranh Kiên Cố; Pháp diệt, Ma cường (thịnh). Tâm chúng sanh ngày càng thêm xấu ác. Phật đã huyền ký rằng :

     

    Trong thời kỳ Mạt Pháp nầy, tà sư “phá pháp” nhiều như cát sông Hằng (Kinh Lăng Nghiêm), ngoài ra còn có 96 ngoại đạo, tà giáo tìm đủ mọi cách để tiêu diệt Phật Giáo nữa, không cho một ai tu thành đạo cả. Tương lai sẽ không còn in kinh, thuyết chánh Pháp nữa. Hiện nay chúng ta cũng đã nhận thấy biết rồi, Phật Pháp đang bị phá hoại (tiêu diệt) một cách tinh vi và khéo léo đến nổi ít có ai nhận diện ra được.

    Nó khảo đủ mọi cách hết :

     

    ·                                 Nội khảo, ngoại khảo, thuận khảo, nghịch khảo…

    ·                                 Nó làm cho tâm tánh con người không còn NHÂN TÌNH nữa (càng ngày càng ác hiểm).

     

    Chúng ta khó thể nào có được tâm lực, chánh tâm, chánh trí, và chánh kiến. Hiện nay, tâm của con người bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng. Nào là tham lam, cố chấp, tranh đua, sân hận, dâm dật, v.v… vì thế, cho nên dẫn đến cả thế giới đang lầm than trong đau khổ, tai nạn, binh đao khói lửa, chiến tranh sớm muộn sẽ bùng nổ trong nay mai.

     

    Muốn biết trong tâm của chúng sanh như thế nào, thì cứ nhìn ra ngoài thế giới hiện nay ra sao sẽ biết liền. Bên trong tâm con người thì đầy phiền não, bên ngoài thì quá nhiều cám dỗ. Xã hội sao không động loạn cho được?

     

    Ma quỷ dựa nhập đầy đường, không bỏ sót một ai, chúng vô từng nhà, từng quán chợ, đi vào tâm thức của từng người (trong khi thức, cũng như trong lúc ngủ, mà nó biết mặt, biết tên, biết nhà v.v…) quấy phá khắp nơi trên thế giới. Nhà nhà khói đen bao phủ. Người người khổ sầu, ai oán…nên chiêu cảm đến bão lụt, khói lửa cháy lớn, thất nghiệp, đói khổ lan tràn, nhà tan cửa nát, mất nhà mất việc làm, bệnh tật ngày càng nhiều khó chữa trị v.v…

     

    Cũng vì do từ nơi TÂM xấu ác của con người mà phát sanh ra hết cả. Nếu như mọi người đều có cái tâm tốt, tâm an, tâm đầy lòng bác ái, thì gia đình sẽ được vui vẻ, thuận hòa, thế giới sẽ an bình, phồn thịnh. Dù cho Ma quỷ dữ cách mấy cũng chẳng làm gì được, đôi khi họ còn kính phục mà chịu quy mạng lễ !

    ĐỨC TRỌNG QUỶ THẦN KINH.

     

    Mong sao chúng ta mau buông bỏ những thói hư tật xấu, cố chấp của mình đi, mà sám hối lo tu sửa (từ xấu ra tốt), buông bỏ những việc vừa ý hay không vừa ý, đúng với sai v.v… để chuyển hướng nạn tai sắp xảy ra, hầu được an lành sống đến ngày trăm tuổi.

     

    Sư Tổ (Đại Ninh) THÍCH THIỀN TÂM đã thấy biết trước là sau nầy đa phần các Phật tử nói riêng và mọi người nói chung, đều bị tà ma dựa, nhập và bị khống chế, ít có ai tu mà được đầu thai lại làm người, thì đừng nói chi đến việc giải thoát về cõi Trời, cõi Phật.

     

    Với lòng từ bi quảng đại, Ngài mới khai mở ra pháp tu MẬT TỊNH, soạn ra những Thần Chú từ trong MẬT TẠNG (của Đại Tạng Kinh), hầu cứu độ các Phật tử có thiện căn (và chân thật tu hành) thoát khỏi Ma nạn, để giữ vững được đường tu, mới bảo đảm được vãng sanh về nơi Cực Lạc Tịnh Độ.

    Ai thật tâm tu hành bắt buộc phải kiêm thêm TRÌ CHÚ để hộ thân và tâm không bị khảo đảo mà lạc vào lưới của Ma, lấp đi con đường vãng sanh vậy.

    Như đã nói ở trên,

     

    ·                                 NIỆM PHẬT được bất tư nghì CÔNG ĐỨC

    ·                                 TRÌ CHÚ được bất tư nghì THẦN LỰC (cái lực nầy sẽ giúp cho ta thoát nạn khổ)

    Nếu chỉ chuyên NIỆM PHẬT mà không có TRÌ CHÚ đi kèm, thì cũng giống như người đang bị đủ thứ bệnh tật, kẻ ác bao vây tứ phương, ngày đêm chẳng được yên, mò mẫm, lê lết mà đi, không may gặp phải giặc cướp (Ma) ồ ạt xông đến bắt, chừng đó thì :

     

    ·                                 Không có TÂM LỰC (không biết dụng tâm)

    ·                                 Không có SỨC LỰC (để chống trả)

    ·                                 Không cóTRÍ LỰC (để phân biệt chánh tà)

    ·                                 Không có chút THẦN LỰC(nào để đề kháng) cả

    Lúc đó sợ quá, không còn nhớ niệm Phật nữa, á khẩu đứng tim mà chết. Vậy thần thức có còn được yên để về Cực Lạc không ?

     

    Từ bi phải có trí huệ đi kèm. Niệm Phật phải có Thần Chú đi kèm (hai cái nầy không thể thiếu một).

    Những người không có chánh tâm, không chân thật tu hành cần cầu giải thoát, hoặc có cái TÂM NGHI NGỜ, PHÂN BIỆT, XẤU, ÁC v.v… thì khó thể trì Chú cho được, sẽ dễ bị “tẩu hỏa nhập ma” (bởi vì Thần Chú đó là tâm ý của Phật nên thuần “CHÁNH”, nếu như đem cái tâm “TÀ” mà trì Chú thì không thể nào cảm ứng hoặc thành tựu được là như vậy). Cho nên, trong thời kỳ pháp diệt tận này, rất ít có người “dám” trì Chú, hoặc biết về Ấn Chú của Phật gia một cách tỏ tường.

     

    Thậm chí có nhiều người sợ không dám trì Chú, lại còn phỉ báng và ngăn cấm người trì Chú nữa. Nhưng họ không hiểu rằng :

     

    Chính  Đức PHẬT xưa kia cũng đã dùng Thần Chú để hàng phục Ma quân, và cứu đệ tử của Ngài ra khỏi Ma nạn! 

     

    Ta hãy thử hỏi :

    Người TU (trụ trì ở trong chùa) đã dùng Thần Chú gì để sái tịnh Chùa, sái tịnh hằng ngày cho bản thân (mỗi khi ăn, uống, tắm gội), cúng vong linh, cầu siêu, phát tang, xả tang, triệu hồn, thí thực, phóng sanh, cho đến công phu mỗi sáng v.v... ? Hỡi ôi ! Có được mấy người chịu TIN, chịu trì Chú, và thi hành đúng theo như điều luật của nhà Phật?

     

    Hiện nay, đa phần Phật tử chỉ thích tụng Kinh, niệm Phật cầu PHƯỚC qua ngày, hoặc thích ngồi Thiền hơn là Trì Chú (tức là tu theo MẬT TÔNG chân chánh của PHẬT) vậy.

     

    Muốn biết thể giới Quy Y Tam Bảo của mình còn hay mất, hãy xem lại cái tâm của mình (có làm những điều xấu ác, có gần gũi, hoặc thân cận với kẻ ác không) thì sẽ biết ngay. 

    Như là :

    ·                                 Tham tiền, tham danh, tham lợi.

    ·                                 Việc xấu nào mà không làm.

    ·                                 Thị phi nào mà không nói.

    ·                                 Không nói “có”, có nói “không”.

    ·                                 Nói xấu Phật, nói xấu người tốt.

    ·                                 Thường hay sân giận, tâm tánh ích kỷ, bỏn xẻn.

    ·                                 Thường ganh tỵ, đố kỵ

    ·                                 Tranh chấp phải quấy, thấp cao.

    ·                                 Cố chấp, hận thù không xả.

    ·                                 Tranh đấu không biết mệt.

    ·                                 Giành giựt cái tốt về mình.

    ·                                 Không biết ơn nghĩa, liêm sỉ.

    ·                                 Nhục mạ người chân tu.

    ·                                 Khinh sư diệt tổ.

    ·                                 Giết Thầy, hại bạn.

    ·                                 Dẫn dắt Phật tử tu sai lầm (không giống đường lối của Phật, của Tổ sư muốn dạy).

    Đó chỉ là lược ra sơ sơ ở trên cũng đủ thấy Tam Quy, Ngũ Giới đã là khó giữ nổi, thì nói chi đến Bồ Tát giới, Tỳ Kheo giới !!!Thần Thánh nào tiếp tục gia hộ cho mình đây ?!

    Thân hôi thì người đời lánh xa.
    Tâm hôi thì thần thánh lánh xa.

    Nếu như đã mất hết thể giới Quy Y rồi, thì tự động 25 vị Thần theo hộ cho mình cũng sẽ bỏ đi luôn. Chừng đó, Ma quỷ sẽ dễ dàng nhào vô làm hại, bắt hồn, bắt xác mà thôi...

     

    Có rất nhiều Phật tử chưa hiểu thấu, nên nghĩ rằng :

    Tu Tịnh Độ (niệm Phật) rất dễ, người (chánh hoặc tà) nào cũng tu được. Còn tu theo Mật Tông thì rất khó (trì Chú hoài cũng không thấy có kết quả gì cả),và người mà trì Chú sẽ khó thành được đạo quả v.v… !

    Hoặc là :

    Muốn về Cực Lạc mau, thì phải “chuyên” niệm Phật, không nên trì Chú. Vì tu hai pháp môn (Mật Tịnh) một lượt sẽ bị chi phối, không được nhất tâm, không được vãng sanh!

     

    Cho nên, hiện nay hầu hết Phật tử đã từng tu theo pháp môn MẬT TỊNH đều từ từ bỏ trì Chú (như Chú Hộ Thân, Lăng Nghiêm, Đại Bi, Bát Nhã, Vãng Sanh v.v…), cho đến bỏ đắp mền Tỳ Lô luôn nữa.

    Phải biết rõ thêm rằng, ba môn vô lậu học: Giới, Định, Huệ tượng trưng cho Giác, Chánh, Tịnh, và lại cũng tượng trưng cho Tam Bảo : Phật, Pháp, Tăng.

     

    ·                                 Phật nghĩa là “Giác Ngộ”.

    ·                                 Pháp tức là “Chánh Pháp”.

    ·                                 Tăng mang ý nghĩa “Thanh Tịnh”.

    Tu học Phật Pháp không ngoài ba môn Giác, Chánh, Tịnh nầy. Đây cũng ví như ba cửa Tam Quan trước cổng chùa, vào được một cửa là vào được nhà của Như Lai.

     

    Như Thiền Tông thì chủ trương thấy tánh thành Phật.

    Đây là theo môn “Giác” mà tu hành.

    Giáo Tông thì chủ trương nghiên cứu Kinh Giáo.

    Đây là theo môn “Chánh” mà tu hành.

    Mật Tông và Tịnh Độ đều giống nhau, vì đòi hỏi phải có tâm “Thanh Tịnh”.

     

    Đây là theo môn “Tịnh”mà tu hành. Ngoài ra, Tịnh Độ và Mật Tông đều là pháp môn “Nhị Lực”. Nghĩa là ngoài sức mình tu ra (tự lực), còn được nhờ vào “Từ lực” (tha lực) bổn tôn của Thần Chú và “Tâm lực” của chư Phật gia trì.

     

    Vì thế :

    Hai môn “Mật” và “Tịnh” song tu thì rất là “hạp” căn.

    Còn ngược lại :

    Hai môn “Thiền” và “Tịnh” song tu, thì không hạp (căn) được, trừ khi là người Thượng Thượng căn, vì một bên theo Không môn (Thiền), còn một bên theo Hữu môn (Tịnh).

    Cho nên, Mật Tông và Tịnh Độ đều khó như nhau và cũng đều dễ như nhau.

     

    Tại sao dễ ?

    Dễ vì câu "A Di Đà Phật" hay Chú "Um Brum Hùm", thì ai cũng trì được.

    Nhưng tại sao khó ?

    Khó bởi vì cả hai đòi hỏi người Trì (Chú), hoặc Niệm (Phật) đều phải có được cái tâm trong sáng, thì mới có thể phát sinh ra được “tâm lực”, rồi từ tâm lực đó dần dần mới có được “thần lực.”

    Chính cái “tự lực” này mới phụ với “tha lực” của Đức Phật A Di Đà mà đưa mình về Cực Lạc được.

     

    Nhờ có Tâm lực trong sáng mới bắt được làn sóng của chư Phật, Bồ Tát, mới cảm ứng đạo giao, mới giải nạn Thiên tai, và được tiếp dẫn vãng sanh.

     

    Còn như, nếu dùng cái tâm phân biệt, tâm phan duyên, tâm cố chấp, tâm xấu ác mà niệm Phật thì sẽ bắt nhằm phải làn sóng của Ma, khiến cho Ma Quỷ kéo đến đầy nhà, bệnh tật kinh niên, khảo đảo không ngừng, gia đình bất an, sở cầu không được như ý v.v... Dù niệm Phật bể cổ cũng không được vãng sanh, trái lại còn làm “oan gia” trong cửa đạo (vì vô tình đã tiếp tay với kẻ ác tiêu diệt Phật Pháp mà ngay chính mình không hề hay biết, cứ tưởng rằng mình đang làm Phật sự!)

     

    Phải biết :

    Cả hai, một MẬT, một TỊNH đồng chung nguồn gốc mà sanh ra. Nay phối hợp cả hai phần (MẬT và TỊNH nầy) lại thì sự thành công càng tăng thêm gấp bội.

     

    Trong bộ Luận Đại Trí Độ, Ngài Cưu Ma La Thập có giảng rõ :

    ·                                 Trì Chú có nghĩa là gìn giữ và bảo vệ.

    ·                                 Gìn giữ là gom góp các pháp lành không cho tan mất.

    ·                                 Bảo vệ là ngăn ngừa tâm bất thiện không cho phát sanh.

    ·                                 Trì Chú là giúp tăng trưởng Huệ lực, Thần lực.

    ·                                 Duy trì tâm lực, bảo tồn chân khí

    (như người bị mất hết chân khí sẽ bị bệnh hoài, thân tâm thường mệt mỏi, ngày càng kiệt sức, trí huệ mê mờ, không còn tự chủ, dễ bị Ma quỷ dựa nhập).

    ·                                 Người trì Chú có được chánh tâm, chánh ý.

    ·                                 Thống nhiếp và duy trì vô lượng Phật Pháp, khiến không bao giờ hoại diệt.

    Khi trì Chú, tay nên kết Ấn, miệng trì Chú (trì cho ra tiếng), mắt nhìn tượng Phật, tâm quán (nhớ tưởng) chữ Rảm (chủng tử biểu tượng cho bản thể của chư Phật).

     

    Pháp môn Trì Chú giúp cho người tu “phát sanh trí huệ” để kiểm soát được hành động, lời nói, ý nghĩ và phân biệt được rõ ràng đâu tà, đâu chánh. Như vậy thì hành động, lời nói và ý nghĩ sẽ trở nên trong sáng, vọng niệm tự nhiên không khởi. Không khởi niệm phân biệt, giữ tâm trong sáng thì mới phát sinh ra được “đạo lực” (cái lực nầy mới có khả năng độ mình, độ người giúp giải được nạn Thiên tai và được giải thoát).

     

    Cách niệm Phật, trì Chú lớn tiếng nầy gọi là “Bố Ma” (làm cho ma khiếp sợ mà bỏ chạy), nhiếp được thân, khẩu, ý trong sáng và có được những lợi ích đặc biệt sau đây:

    1.  Diệt được sự buồn ngủ, hôn trầm

    2.  Tâm không tán loạn

    3.  Chuyện đời chẳng lọt vào tai

    4.  Có cặp mắt sáng

    5.   Tiếng nói rổn rảng, mạnh mẽ, cứng chắc, đầy thần lực

    6.  Có tướng đi mạnh mẽ, oai phong

    7.   Lời nói thẳng thắn, mạnh dạn

    8.   Tâm thần cương trực, không nhút nhát, không sợ sệt, xông pha vô trận hàng phục ma quân

    9.  Dõng mãnh, tinh tấn

    10. Tâm lực, thần lực phát sanh ra cực mạnh

    11. Bệnh nghiệp được tiêu trừ

    12.  Tứ Đại điều hoà

    13.  Tâm thể an nhiên

    14. Khi trì Chú phát ra vòng hào quang bao phủ quanh thân người trì Chú

    15. Bùa ngải, độc trùng, gió độc không xâm phạm đến thân mình được

    16. Thiên Ma phải nể sợ

    17. Vong linh vất vưởng chung quanh nghe được âm thanh của Thần Chú đều được siêu thoát

    18. Côn trùng, chuột, kiến, gián, nhện, bọ, tự động đi mất, hoặc được thoát kiếp hết

    19.  Những vong linh hữu duyên, và cửu huyền cũng được siêu thoát

    20.  Thiên Long Hộ Pháp luôn ở bên cạnh hộ trì, an ủi, nhắc nhở, chỉ dạy v.v...

    21. Tất cả sở cầu đều được như ý

    22.   Danh tiếng từ từ vang khắp mười phương

    23.  Tam Muội hiện ra trước mắt

    24. Mười phương chư Phật, chư đại Bồ Tát đều vui mừng thọ ký

    25.  Lâm chung chánh niệm, biết trước ngày giờ, vãng sanh Cực Lạc quốc.

    Tu tập theo pháp môn Mật Tịnh tức là “luyện” cho thân tâm được thuần thục, nó đòi hỏi người tu một sự tha thiết, quyết tâm xả bỏ những tâm xấu, luôn mong cầu được giải thoát, chứ không phải là "có căn" (Mật) mới tu được. Nếu căn cơ cao, tâm đã tịnh, thì cần chi phải tu (niệm Phật, hay Trì Chú) ?

    Ở phần trước đã có nói:

     

    Muốn đạt được kết quả tốt đẹp trên đường tu mật tông thì điều tiên quyết là chớ nên khởi lòng nghi ngờ, khinh báng chi cả. Dù cho lòng “nghi”, “chấp” ấy nhỏ như hạt bụi đi chăng nữa, quyết cũng chẳng nên có. Cứ một lòng chặc dạ y theo đó mà hành trì thì được gọi là “đúng như pháp” vậy! Vì chư Phật, Bồ Tát quyết không bao giờ vọng ngữ (nói lời dối gạt)!

     

    Cho nên, muốn bảo đảm được vãng sanh trong kiếp nầy, song song với niệm Phật ta cần phải kiêm thêm phần Trì Chú, mới giải được sự khảo đảo (khi oan gia) kéo đến, và chắc thêm phần vãng sanh cho chính mình.

    Hai chữ MẬT TỊNH nầy hàm ý là:

     

    Người tu phải TRÌ CHÚ (Mật) trước, rồi mới NIỆM PHẬT (Tịnh) sau. Tại sao ? Vì khi trì Chú sẽ tạo ra cái LỰC (để giúp cho thân nhẹ nhàng, Khẩu thanh tịnh, Ý trong sáng), như vậy khi NIỆM PHẬT mới được trọn vẹn công đức. Nếu luôn hành trì như vậy, giữ tâm trong sáng như vậy suốt đời thì chắc chắn sẽ được vãng sanh, vĩnh viễn thoát ly sanh tử luân hồi. 

     

    (Nên xem Kinh “Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương” để  biết rõ thêm về công năng của Thần Chú, sự lợi ích của Mền Tỳ Lô, mặc áo Chú, đeo Chú, vẽ Chú, và mật hạnh của người thọ Bồ Tát giới (để cứu độ chúng sanh) và công đức về việc “trích máu tả Kinh” v.v…)

     

    Tóm lại :

    Muốn HÓA GIẢI  ĐƯỢC THIÊN TAI  và THOÁT ĐƯỢC MA NẠN, bình yên tu hành cho đến ngày VÃNG SANH, bắt buộc phải hành trì Pháp môn Mật Tinh song tu.

     

    NIỆM PHẬT nhưng trong Tâm không rời tiếng Chú, lúc nào cũng vang rền bên tai (trong nhà nên mở máy trì Chú suốt ngày, đêm)          

    Câu thần Chú “thay cho tiếng lệnh của chư Phật và Bồ Tát”, nên có công năng giải nghiệp nạn không thể nghĩ bàn, giúp HỘ THÂN KHÔNG BỊ NẠN TAI (nước, lửa, bão lụt, kẻ ác làm hại, bùa ếm, ma quỷ, không làm hại được đến thân của người đang trì Chú nầy).

     

    Hễ “hóa giải” được cho mình bình an, thì sẽ giúp cho những người chung quanh cũng được bình an, thoát nạn. Tất cả Thiên Tai, chiến tranh, khói lửa đều do TÂM của chúng sanh chiêu cảm ra hết cả.

    Vì chúng sanh thường hay có :

    ·                                 TÂM SÂN dữ tợn, nên chiêu cảm ra LỬA dữ.

    ·                                 TÂM MONG CẦU, THAM LAM, nên chiêu cảm ra MƯA, BÃO LỤT, SÓNG THẦN

    ·                                 TÂM SÁT, ẾM HẠI NGƯỜI, nên chiêu cảm ra CHIẾN TRANH, KHÓI LỬA

    ·                                 TÂM SI MÊ, nên chiêu cảm ra GIÓ SOÁY, GIÓ  BÃO, và trùng trùng điệp điệp những cái khổ đến, sẽ không giản dị, không dễ dàng đối phó.

    Bởi vì tất cả Thiên Tai gây ra đều do nơi TÂM ÁC của chúng sanh. Bởi Tâm chúng sanh càng ác, càng dữ, càng có nhiều sáng kiến, nhiều thủ đoạn, càng phát minh, thì hậu quả sẽ càng “đập lại” chúng sanh không thương dị.

    "10 phương chư Phật và hằng hà sa số Bồ Tát đang hiện thân bao phủ cõi Ta bà (của chúng ta), nhưng không làm sao ngăn chận được làn sóng thần đen kịt đang ồ ạt kéo đến một cách dữ tợn…”

    Muốn HÓA GIẢI được Thiên tai, thì cũng phải từ nơi TÂM “thiện” của chúng sanh mà TU SỬA, SÁM HỐI, TRÌ CHÚ, và ngưng làm ác.

    Rồi :

    ·                                 Dùng “LỰC THIỆN” trong tâm mình “quán” vang xa ra để hóa giải những điều hung ác.

    ·                                 Dùng “LỰC THANH TỊNH” từ nơi tâm để hóa giải những sự biến động.

    Ngồi tại nhà TRÌ CHÚ vẫn giải được nạn tai cho chúng sanh.

    Nên hiểu rằng, Phật chỉ độ người hữu duyên. Chư Phật, Bồ Tát chỉ giúp cho những người có căn lành TU SỬA và HOÁN CHUYỂN TÂM TÁNH, thường xuyên kiểm tâm, hành trì điều thiện; như vậy các Ngài mới có thể giải nạn tai được.

     

    Cho nên Phật, Bồ Tát không thể nào CỨU ĐƯỢC NHỮNG CHÚNG SANH CÓ TÂM ÁC.

    Cũng như Ma Vương, không thể nào đứng giữa hư không để “tiêu diệt” được hết những chúng sanh có tâm chí thành, tu hành chân chánh !

    ·                                 Ma Vương không hại được người có tâm lành, tu hành chân chánh.

    ·                                 Phật, Bồ Tát không cứu được người có cái Ác Tâm.

    ·                                 Phật và Ma Vương cũng đều nương theo tâm thiện, tâm ác của chúng sanh mà thôi.

    BỒ TÁT cùng với chư PHẬT khắp 10 phương đều nghe, đều thấy hết những tiếng kêu cứu, những lời than khổ của chúng sanh, nhưng không cách nào cứu được họ, vì phải do TÂM CỦA CHÚNG SANH đó THA THIẾT, THẬT LÒNG MUỐN CỨU.

     

    Những người thật lòng kêu cứu, đều đã được Bồ Tát ra tay cứu độ cho họ được tai qua nạn khổ rồi (số chúng sanh được cứu thì rất là ít oi). Còn số người đang và sẽ bị nạn tai, khói lửa trong tương lai nhiều không kể xiết. Xác người chết như bèo trôi sông vậy.

    Chư Phật, Bồ Tát chỉ đành biết lấy mắt nhìn mà rơi lệ. Vì quý Ngài không thể cứu độ chúng sanh có những TÂM quá ác độc được.

     

    Chiếu đúng theo luật thì gieo NHÂN nào, hái QUẢ đó.

    Cho nên, mỗi khi Thiên Tai đến với mình, thì đừng nên trách Trời, Phật chi cả cho mang thêm tội,  mà hãy dùng 2 tay đập vào đầu mặt mà chửi mắng mình “sao mầy ác quá vậy, để bây giờ phải trả quả ác, không ai cứu được cả !”

     

    Lành, dữ, thiện, ác, siêu, đọa, họa, phước đều do nơi TÂM cả. Hễ giữ được cái Tâm vui vẻ, thì trong nhà ảnh hưởng sự mát mẻ, nhẹ nhàng, công ăn việc làm yên ổn. Còn như trong Tâm mang nhiều phiền não, chấp nhất, bực bội thì trong nhà bị khí đen bao phủ, nặng nề, bệnh hoạn, công ăn việc làm bị trắc trở, vợ chồng gây gổ v.v… TÂM của một người đã ảnh hưởng như vậy rồi, thì nói chi đến nhiều cái Tâm ÁC cộng lại, sẽ ảnh hưởng như thế nào?

     

    Hễ TÂM chúng sanh an bình, vui vẻ thì cả thế giới cũng sẽ an lành, bình yên, mưa hòa, gió thuận. Điều này được chứng minh qua một câu chuyện tại Hoa Thịnh Đốn có “4 ngàn cái TÂM an bình” :

     

    Cách đây 20 năm về trước, Tạp chí Khoa học của Mỹ đã tuyên bố một nghiên cứu thí nghiệm xã hội học lần đầu tiên được thực hiện tại Đại Học Maryland, thuộc vùng Washington DC. Mùa hè vào năm 1993, có 4 ngàn người từ khắp thế giới (81 quốc gia) ghi danh tham dự khóa TU “THIỀN MẬT” (Thiền định của sự TRÌ CHÚ) suốt 2 tháng. Họ dạy cho 4 ngàn người nầy phương cách TRÌ CHÚ để giúp cho ĐỊNH cái TÂM của họ, hầu có thể làm giảm “ẢNH HƯỞNG” và “NGUỘI” bớt đi những việc ác, hành hung, giết người, hãm hiếp, cướp giựt, bạo lực và kẻ tội phạm v.v… đã xảy ra cực mạnh tại Washington, DC trong thời điểm đó.

    Kết quả trong 2 tháng là: Họ đã phát hiện ra và cho thấy rằng: tỷ lệ tội phạm, bạo lực trong đó bao gồm luôn việc giết người và hãm hiếp – đã được giảm xuống 23% trong thời gian thử nghiệm cái ĐỊNH TÂM của 4000 người.

     

    Nhà Vật lý học Tiến Sĩ Hagelin đã từng nghiên cứu trước đây cho biết rằng :

    “Những kỹ thuật Thiền Định và Trì Chú giúp tạo ra một trạng thái “thư giãn” sâu sắc. TÂM LỰC của 4000 người tham gia tạo ra một làn sóng AN BÌNH, NHẸ NHÀNG và DỊU MÁT đã ảnh hưởng đến môi trường TRẬT TỰ chung quanh và ảnh hưởng luôn đến những người khác (mà không hề biết và không tham dự trong cuộc thử nghiệm này).Tâm Lực của 4000 người này hợp lại đã tạo ra động tác “HIỀN HÒA” chiêu cảm và ảnh hưởng đến “khí hậu” cho đến số “phạm nhân” trong xã hội cũng được “yên lành”.  Kết quả cho thấy sự cảm ứng của lãnh vực về “Tâm Thức” (Học) mạnh không thể nghĩ bàn.”

     

    Những sự chết chóc, khổ nạn, bạo lực gây ra bởi sự “căng thẳng” cực mạnh từ trong “Cộng TÂM” của chúng sanh mà ra.

     

    Người đã chết rồi, cũng còn mang nghiệp cũ, đầu thai lại tạo thêm nghiệp mới, và cộng thêm nghiệp chung của môi trường trong xã hội. 3 cái nghiệp cộng lại quá nặng, nên rất khó tìm cầu giải thoát cho được.

    Các nhà khoa học gia như Edison và Marconi cũng đã chứng minh cho ta thấy những làn sóng (của điện, radio) có khả năng chuyên chở ánh sáng và âm thanh, thì Tâm lực của chúng sanh cũng vậy. Mỗi khi phát lên tiếng trì Chú (với tâm trong sáng), lập tức hào quang của tâm Chú này phát sáng ra chuyên chở cái Tâm lực của người đang trì Chú, và người trì Chú đó cũng đang chuyên chở hết Tâm ý của BỒ TÁT, và luôn cả Tâm lực của PHẬT, lập tức vang ra xa, HÓA GIẢI hết tất cả biến động chung quanh, tai qua, nạn khỏi, mọi việc bình an.

     

    Tóm lại, Phật tử tu Mật tông  cần phải nên biết rằng :

    Đức QUÁN THẾ ÂM Bồ Tát cùng với chư Phật vì thương chúng sanh, nên đã ban cho chúng ta một kho tàng vô tận, mà chúng sanh không biết xử dụng đúng chỗ, đúng như pháp, nên không được lợi ích và cảm ứng chi cả.

     

    Người đời không hiểu rõ công năng biến hóa thù thắng và thần lực cao siêu vô cùng tận của Chú, nên đã khởi tâm tà, lạm dụng “Ấn, Chú” của Phật, của Bồ Tát (để khống chế người, hãm hại người lành, làm trái ngược với “Tâm từ bi” và khắc với “Tâm ý” của Phật, của Bồ Tát), thì nó sẽ phá tác rất nhiều, hậu quả (đọa đày) cũng sẽ vô cùng tận !

    Phải cẩn thận điều nầy.

     

    Người đời có quá nhiều thứác tâm, tham, sân lẫy lừng và thường mong cầu (toàn những sự việc mà không thể nào ban cho được), lại lười biếng không chịu tự bản thân tìm cầu học hỏi chi cả, không chịu tu tập, không chịu hành trì đúng theo chánh pháp (của Phật dạy), không chịu bố thí, không chịu làm những điều thiện, chỉ muốn tất cả tiền tài, danh lợi và mọi sự ham ưa phải rơi vào hết trong tay của họ mà thôi. Họ đã không sợ chết, không sợ tội, không sợ đọa đày, không sợ hậu quả nên thẳng tay giết hại người nhiều không kể xiết chỉ vì một chút hư danh!

     

    Nhiều người không biết rằng:

    Tất cả thần Chú của Phật của Bồ Tát rất là diệu dụng, xem như là một câu thần chú “như ý”, có công năng cứu người ra khỏi tất cả sự khổ nạn, đưa người thoát khỏi cảnh đọa đày, giải thoát ra khỏi 3 cõi, 6 đường, chứ không thể làm trái ngược lại theo những tâm ác của người đời được, sẽ bị quật ngược trở lại phá tác ngay; thì kết quả sẽ không tốt. Hễ khởi những tâm ý xấu, ác muốn hại người như thế nào, thì sẽ chuốc lấy hậu quả y như vậy.

     

    “Ngậm máu phun người dơ miệng mình,” cũng giống như ngước mặt lên trời mà phun nước bọt vậy.

    Vì thế, người trì chú Hộ thân, chú Đại Bi, chú Lục Tự Đại Minh và những chú khác (của chư Phật, chư Bồ Tát) bắt buộc phải có lòng thành kính, tâm ý phải thanh tịnh và trong sạch để trì Chú, chỉ được mong cầu những điều tốt đẹp cho người, ích lợi cho người, cứu độ cho người thoát khỏi cảnh khổ,  chướng nghiệp khảo đảo,  nạn tai đang xảy ra khắp nơi,  nếu có tâm ý tốt tạo phương tiện và dẫn dắt người tu tập theo chánh pháp v.v… thì mới xử dụng Ấn Chú được cho bất kỳ một trường hợp nào (không có mang lỗi).

     

    Tà nhơn thuyết chánh pháp, chánh pháp biến di tà,
    Chánh nhơn thuyết tà pháp, tà pháp xu bội chánh.

     

    Khi trì Chú, phải giữ lòng trong sạch, hạnh Bồ Tát, lòng Từ Bi phát khởi thì mới có thể phát huy được TÂM LỰC, THẦN LỰC sẽ bay xa ngàn dặm, tâm ý trong sáng của người đang trì chú đến tận 10 phương chư Phật, sẽ được hằng hà sa số chư Phật, chư đại Bồ Tát phóng quang chiếu sáng bao bọc cho người đó, thì đâu sợ gì không được cảm ứng đạo giao, đạo lực ngày càng thêm thăng tiến, sở cầu luôn được như ý. Mọi việc từ trong gia đình (thân tộc) cho đến việc ngoài đời cũng đều được tốt đẹp hết cả.

     

    Lòng “thương” của chư Phật, của đức QUÁN THẾ ÂM Bồ tát (nói riêng) và chư đại Bồ Tát ở khắp 10 phương (nói chung) đối với chúng sanh vô bờ bến.

     

    Quý Ngài luôn cảm nhận được tất cả tâm ý của chúng sanh, nhưng TÂM của chúng sanh không được trong sạch, Ý(tưởng) rất là không lành và luôn bị che lấp bởi những điều sái quấy, sân hận lẫy lừng, tham danh, đoạt lợi, hại người lành một cách dữ tợn, do đó mà không thể nào giao cảm được với chư Phật, chư Bồ Tát.

    Quý Ngài chỉ biết yên lặng đứng nhìn mà rơi lệ, Bồ Tát kề cận với một chúng sanh đang đau khổ, đang trong hoạn nạn, mà không thể nào giao cảm được cả, cũng không thể nào cứu độ được cho những chúng sanh đó.

    Bồ Tát rất đau lòng vì muốn giảng giải, muốn chỉ rõ cho chúng sanh hiểu cũng rất khó, vì lời dạy của Bồ Tát không thể nào lọt hết vào tai của chúng sanh, nên phải mượn tay người để cứu người là như vậy.

     

    Cho nên người mà chuyên tâm, nhất tâm trì Chú, xem như có Bồ Tát đang đứng trước mặt, mà chân thành sám hối và tu sửa thân tâm được trong sạch, thì sẽ đạt được cái “Tâm lực, Trí lực, Thần lực” cực mạnh, sẽ được cảm ứng đạo giao với PHẬT, với BỒ TÁT. Điều này không có gì là khó tin, khó hiểu cả.

    Mây tan vầng nguyệt rạng, nước cạn trái châu bày, Tâm trong sáng thì Phật hiện. Thiên tai cũng không nổi  lên được.

     

    Một khi tâm (căng thẳng) của chúng sanh lắng xuống, tâm được AN rồi, sẽ phát khởi được cái Tâm “từ bi hỷ xả” (không còn ác, tham lam, sân hận, đố kỵ, ganh tỵ và chấp nhứt nữa). Mọi người sẽ trở thành một cái máy phát trật tự và hòa bình trong xã hội, an vui mãi mãi.

     

    Nếu chúng sanh tập phát khởi “thiện tâm” nhiều hơn, nhất dạ hành trì pháp môn “Mật Tông Tịnh Độ”(song tu)do cố Hòa Thượng THÍCH THIỀN TÂM khai sáng, và thực hành y theo lời dạy của Quán Thế Âm Bồ Tát, thì sẽ giải được Thiên Tai, vàbảo đảm cho bước đường “giải thoát”cùng“vãng sanh”ngay trong đời này.

    Source: TTPH

    Read more »
  • Phương Pháp dùng Chuổi

    Đối với người hành trì Mật Tông, chuỗi hạt (mala) là một pháp khí không thể thiếu. Chuỗi hạt gắn kết với người hành trì thân thiết hơn mọi người thường tưởng. Theo truyền thống của Việt Nam cũng như của Trung Quốc. Chuỗi hạt gồm 108 hạt tượng trưng cho sự xuyên suốt của Phật Giáo qua 108 chướng kiết sử, phiền não của chúng sinh. Ở Tây Tạng, người ta cũng quan niệm rằng chuỗi hạt đóng góp một phần không nhỏ đến việc thành tựu các pháp tu học. Xin gởi đến các bạn lời khai thị của đạo sư Liên Hoa Sanh về chuỗi hạt. Đoạn trích dẫn dưới đây được trích dẫn từ cuốn Luận Giảng về Pháp hành Lokeshvara của thầy Hồng Nhật

     

    Ngài Liên Hoa Sanh dạy : "Loại chuỗi tốt nhất dùng tăng số lượng trì tụng là chuỗi làm bằng vài loại ngọc quý, loại chuỗi trung làm bằng hạt của cây hay hột của trái cây, loại chuỗi thấp làm bằng gỗ, đất, đá hay thuốc."

    Chuỗi làm bằng vỏ ốc, đất gỗ hay hạt từ cây hay quả có mục đích dùng để thành tựu các nghi thức và sự nghiệp tức tai (cầu an), chuỗi làm bằng vàng sẽ thành tựu sự nghiệp tăng ích (cầu dồi dào), chuỗi san hô đỏ thì tốt nhất cho việc thành tựu các nghi quỹ về kính ái (tăng uy lực), chuỗi làm bằng sắt hay turquoise (lam ngọc) tốt trong các pháp hàng phục (phẫn nộ), chuỗi làm bằng Dzi hay các loại đá quý có thể dùng để thành tựu bất cứ loại sự nghiệp nào mà ta cần làm.

    Chuỗi làm bằng hạt đá mơ (apricot stone) sẽ thành tựu sự nghiệp công ích, chuỗi làm bằng hạt "lotton" tròn đen thành tựu pháp kính ái, bằng hạt bồ đề sẽ thành tựu mọi bộ pháp, bằng hạt raksa thành tựu pháp hàng phục, làm bằng gỗ cây bồ đề thành tựu sự nghiệp tức tai, bằng hạt trái dâu thành tựu pháp kính ái, bằng gỗ cây đào (gỗ gụ) thành tựu pháp hàng phục, chuỗi bằng ngà, nhất là ngà voi, thành tựu mọi sự nghiệp, bằng đá tốt cho phép tăng ích, làm bằng dược liệu tốt cho phép hàng phục, bằng các loại châu ngọc tốt cho mọi pháp. Tuy nhiên, không nên làm chuỗi bằng nhiều loại hạt khác nhau nếu không biết sự kết hợp này đem lại hiệu quả gì, nếu không sẽ không đem lại kết quả mong muốn. Chuỗi bằng sắt hay thép sẽ tích tụ công đức mỗi lần trì niệm một cách tổng quát, chuỗi bằng đồng hơn gấp bốn lần, bằng raksa hơn 20 triệu lần, bằng ngọc trai gấp 100 triệu lần, bằng bạc gấp 100.000 lần, bằng hồng ngọc trai gấp hơn 100 triệu lần, chuỗi hạt bồ đề vô lượng lợi ích khi tác bốn pháp.

    Dây xâu chuỗi phải dùng ba, năm, chín sợi, không dùng số khác vì ba là ba thân, năm là năm Phật hay năm trí, chín là chín thừa.

    Hột mẫu châu có thể kết ba hột tượng trưng cho Kim Cương tánh của chúng sanh. Ba thân, hột nhỏ nhất ngoài cùng nên màu lam (xanh dương), có lẽ nên bằng ngọc bích (lapis) tượng trưng cho bất động trí, hột giữa màu đỏ là Kim Cương khẩu, hột trong cùng màu trắng là Kim Cương thân, chuỗi phải được một vị Đạo Sư gia trì và bạn phải tự gia trì bằng cách chuyển khí năng vào đó, bạn phải chuyển khí năng vào đó trước khi lần chuỗi để được lợi ích thật sự, bạn có thể tẩm hương trầm vào chuỗi.

    Kế đó, tự quán mình thành Bổn Tôn rồi cầm chuỗi bằng tay trái và đặt mẫu châu thẳng đứng ở trung tâm, tụng chú để chuyển mọi Pháp thân thành Trí của thực tánh.

    OM SVABHAVA   SUDDHA   SARVA   DHARMA SVABHAVA SUDDHO HAM.


    Thần chú này tẩy sạch và biến các ý tưởng bất tịnh thành không trí, mẫu châu hiện ra như Bổn Tôn trong mandala và những chuỗi khác hiện ra như quyến thuộc của Ngài, phần hành trì quán tưởng về samayasattva, kế tiếp câu triệu Jnanasattva, triệu mời Ngài đến, kéo móc Ngài và hoà nhập Ngài vào samayasattva cũng như bạn đã làm trong nghi quỹ, triệu thỉnh chư Tôn từ tịnh thổ đến trước mặt rồi họ hoà nhập vào chuỗi và an trú ở đó. Do đó, mỗi phần của chuỗi là toàn bộ mandala gồm có Bổn Tôn quyến thuộc, toà sen, trang trí, đồ dùng cầm tay, màu sắc. Gia trì chuỗi theo cách này phải nhân mỗi chú tự của bộ chú nào mà bạn tụng lên 100.000 lần sẽ được các nghiệp quả tốt, vì vậy phải cẩn trọng khi thi hành.

    Chuỗi của bạn không những tượng trưng cho chư Tôn mà còn là khẩu của chư Tôn, thí dụ bạn tụng bài chú 100 chữ thì mẫu châu tượng trưng chủng tự OM và những hạt châu khác tượng trưng cho các chữ còn lại.

    Ngài Liên Hoa Sanh dạy : "Khi tụng chú tức tai dùng đầu ngón cái mà lần chuỗi, khi tụng chú tăng ích dùng ngón đeo nhẫn, dùng ngón cái và ngón đeo nhẫn khi tụng chú kính ái và dùng ngón áp út lần chuỗi khi tụng chú hàng phục. Tay phải ít khi dùng lần chuỗi thí dụ trong vài pháp phẫn nộ, vài sách dạy dùng cả 2 tay, nhưng không nên chỉ dùng một tay phải"

    Bất cứ lúc nào đang hành pháp nào hoặc tức tai, tăng ích...luôn nhớ rằng ngón cái là Kim Cương câu sẽ câu triệu các năng lực tâm linh chư Tôn và sự gia trì, lần bằng ngón này sẽ dễ lần hơn lần chuỗi bằng cách đẩy lẹ hai tay.

    Từ kim khẩu của ngài Padmasambhava : "Nếu chuỗi đã được gia trì bởi đạo sư, và bởi chính bạn như là một phần của bộ pháp đang đi, chuỗi phải được mang theo như hình với bóng. Giữ nguyện chánh về Kim Cương chuỗi là không bao giờ rời khỏi thân bạn".

    Không để chuỗi rời khỏi thân nhịêt của bạn, không đưa người khác cầm, không đặt tay vào chuỗi kẻ khác, không dược chuyền chuỗi cho người thất lời nguyện hoặc một người hoàn toàn khác với mình sờ mó.

    Hãy cầm chuỗi khi đọc chú, không được chơi giỡn, bói toán trên chuỗi hoặc khắc dán gì trên chuỗi, phải để một nơi trang trọng với thái độ kính trọng.

    Không được khoe chuỗi cho người khác xem, không đặt nơi thấp, không được để trên đất, đừng gắn thêm hạt chỗi vào tràng chuỗi mà không có ý nghĩa gì khác, hoặc chỉ vì trang sức cho nó, nếu ta giữ được các giới thệ nguyện liên quan đến chuỗi ta sẽ thành tựu pháp đang hành trì. Điều quan trọng là phải bảo vệ khỏi bị ô nhiễm bởi kẻ thiếu đức, ngay cả loại chuỗi hột bồ đề hay bằng vàng sẽ không còn được lợi ích cho ai nếu nó chạm phải tay người phạm ngũ nghịch đại tội, qua tay đồ tể, qua kẻ thất Kim Cương nguyện, bạn sẽ thất bại trong pháp tu. Chuỗi lấy được do không chánh đáng, bị hư hỏng, chuỗi đã được cúng dường cho chư Tôn để trang sức không được phép sử dụng cá nhân. Thật là ý xấu khi nghĩ rằng : "Chuỗi bây giờ được gia trì nên ta lấy nó sử dụng". Dĩ nhiên thật xấu khi trộm hoặc bán lại chuỗi này. Số lượng hột phải không trên dưới 100, chuỗi bị cháy, bị thú vật đạp lên, bị chuột cắn, đều không tốt, những loại này phải bỏ đi vì đã vô dụng.

    Những hành giả Mật Giáo, chuỗi là biểu tượng cao quý thiêng liêng để hành pháp, được xem là Bổn Tôn nên không được cho kẻ khác xem. Phải xem chuỗi là nơi quy y, nhờ vậy đạt được năng lực tâm linh và gia trì ở mức độ cao vì bạn đã hoàn toàn nương dựa vào chuỗi.


    Source TP
    Read more »
  • Tám phương pháp tu Tâm

    1. With a determination to achieve the highest aim
    For the benefit of all sentient beings,
    Which surpasses even the wish-fulfilling gem,
    May I hold them dear at all times.

    2. Whenever I interact with someone,
    May I view myself as the lowest amongst all,
    And, from the very depths of my heart,
    Respectfully hold others as superior.

    3
    . In all my deeds, may I probe into my mind,

    And as soon as mental and emotional afflictions arise --
    As they endanger myself and others --
    May I strongly confront them and avert them.

    4
    . When I see beings of unpleasant character

    Oppressed by strong negativity and suffering,
    May I hold them dear -- for they are rare to find --
    As if I have discovered a jewel treasure!

    5
    . When others, out of jealousy,

    Treat me wrongly with abuse, slander and scorn,
    May I take upon myself the defeat
    And offer to others the victory.

    6
    . When someone whom I have helped,

    Or in whom I have placed great hopes,
    Mistreats me in extremely hurtful ways,
    May I regard him still as my precious teacher.

    7
    . In brief, may I offer benefit and joy

    To all my mothers, both directly and indirectly,
    May I quietly take upon myself
    All hurts and pains of my mothers.

    8
    . May all this remain undefiled

    By the stains of the eight mundane concerns;
    And may I, recognizing all things as illusion,
    Devoid of clinging, be released from bondage.


    This English version is an excerpt from ‘Transforming the Mind: Teachings on Generating Compassion,’ His Holiness the Dalai Lama (translated by Thupten Jinpa), Thorsons of Harpers Collins Publishers, 2000

    Tám Bài Kệ Chuyển Hóa Tâm

    1. Với quyết tâm thành tựu mục đích tột cùng cao cả
    Làm lợi lạc hết thảy chúng hữu tình,
    Tâm hạnh trân quý còn hơn cả viên bảo châu như ý,
    Nguyện luôn yêu thương giữ gìn tất cả mọi chúng sinh.

    2. Mỗi khi gặp gỡ tiếp xúc bất kỳ ai,
    Con nguyện coi mình là kẻ thấp kém nhất.
    Sâu thẳm tận đáy lòng, con nguyện xin tôn trọng,
    Và kính quý người khác như những bậc tối cao.

    3. Trong mỗi một hành động, con nguyện tự soi xét,
    Và ngay khi các cảm xúc ô nhiễm vừa dấy khởi,
    Gây ra phiền não, hại mình, hại người,
    Con nguyện tức thì đối diện và phá tan tâm ô nhiễm ấy.

    4. Bất kỳ khi nào nhìn thấy kẻ ác trược,
    Bị thống trị bởi bao phiền não và tiêu cực,
    Con nguyện mở lòng thương quý kẻ ấy,
    Như kho tàng châu bảo hiếm hoi vừa khám phá.
    5. Lại khi có kẻ do lòng ganh tị,
    Đối xử tàn tệ , vu khống hay nhục mạ con,
    Nguyện con nhận chịu hết mọi thua thiệt,
    Và trao cho họ mọi thắng lợi vẻ vang.

    6. Ngay cả khi có kẻ con đã từng giúp đỡ,
    Hoặc là người con từng kỳ vọng rất nhiều,
    Nay đối xử tệ mạt làm tim con tan nát,
    Nguyện con vẫn xem họ chẳng khác nào bậc tôn sư.

    7. Tóm lại, dù là trực tiếp hay gián tiếp,
    Con nguyện xin dâng hiến mọi phúc lạc
    Đến tất cả chúng sinh mẹ hiền,
    Và nguyện xin thay họ cam chịu mọi đớn đau khổ não.

    8. Nguyện tất cả các hạnh nguyện kể trên
    Không bị tám pháp thế gian tầm thường làm cho ô nhiễm.
    Nguyện con nhận ra mọi sự đều chỉ là hư huyễn,
    Tâm không dính mắc, thoát khỏi mọi ràng buộc thường tình.

    Read more »
  • Thực hành pháp Giác Ngộ. Mật

     

    Ngày hôm nay con, là một rinpoche, đã trân trọng thỉnh cầu một bài giảng pháp liên quan đến câu hỏi “Thế nào là tu tập?” Đây là một bài học rất cơ bản, thực chất là bài học đầu tiên. Tuy vậy, đây là một vấn đề quan trọng mà nhiều người tu tập, trong đó có những người đã tu tập nhiều năm, thường không hiểu và nhầm lẫn về nó. Thật khó khi được sinh ra là một con người. Còn khó hơn nữa nếu sinh ra là một con người với cơ hội được gặp Phật pháp đích thực. Vì vậy hôm nay ta sẽ làm sáng tỏ cho các con về giáo pháp liên quan đến câu hỏi “Thế nào là tu tập?”

    Điều cốt lõi của học hỏi Phật giáo nằm ở việc thực hiện những gì ta học được trong quá trình tu tập.  Chúng ta sử dụng nhân duyên tốt và xấu như là các đối tượng của nhận thức. Vì vậy trước hết ta phải hiểu thế nào là tu tập. Tu tập nghĩa là trau dồi sự tăng trưởng những nghiệp tốt và trau dồi sự xa lánh những nghiệp xấu. Tu tập là trau dồi việc làm tăng lên những duyên nghiệp tốt, trồng những nhân tốt và gặt những quả tốt. Nó có nghĩa là tránh làm tăng lên của những duyên nghiệp xấu, không trồng những nhân xấu và tránh việc gặt hái những quả xấu. Nhưng chữ tu tập còn có ý nghĩa rộng hơn. Trước tiên, chúng ta phải hiểu thế nào là tu tập.

    Phải có điều gì đó mà người tu tập có thể dựa vào. Nếu không có cái để dựa vào, việc tu tập của các con rất dễ trở thành lối tu tập lầm lạc, ngoài Phật giáo, ví như việc tu tập các tín ngưỡng ma quỉ sẽ trau dồi hành vi của ma quỉ. Sự tu tập các tín ngưỡng Phật giáo sẽ trau dồi hành vi của các vị Phật. Vì vậy, phải có điều gì đó để người tu tập trông cậy vào. Phải có các khuôn mẫu để người tu tập có thể dùng để chiêm nghiệm và dựa vào.

    Mọi tôn giáo khác đều tán thành việc tiêu trừ những điều xấu, phát triển điều tốt, hạn chế ích kỷ và làm lợi ích cho những người khác. Người tu tập không thể chỉ dựa vào những điều này trong quá trình tu tập của mình mà không hiểu mục đích của Phật giáo. Chỉ những điều đó thì không phải sự thực hành của đạo Phật thực sự. Bởi vì, trong sự tu tập của chúng ta, điều chúng ta dựa vào chính là Đức Phật. Sự giác ngộ hoàn hảo của Đức Phật là hình mẫu cho sự tu tập của chúng ta. Chúng ta sử dụng ba nghiệp của thân, khẩu, ý để làm theo tất cả mọi điều giống như Đức Phật. Vì vậy chúng ta giữ mình tránh xa những nghiệp không trong sạch dựa trên ảo tưởng và những hành vi xấu ác. Vì vậy chúng ta liên tục giữ mình tránh xa những gì xấu ác. Nhờ việc không can dự vào những gì xấu ác, ba nghiệp của chúng ta không tạo thêm những nhân xấu. Thêm vào đó, chúng ta phải thực hiện tất cả những nghiệp tốt. Ngay cả một suy nghĩ tử tế cũng là một thứ chúng ta cần làm tăng lên và không bao giờ để giảm đi. Chúng ta cần làm tăng trưởng những mối liên hệ nghiệp tốt, những nhân tốt, và hành động tốt hàng ngày. Nói đơn giản, chúng ta phải luôn luôn tránh xa những gì xấu ác và tích lũy những gì tốt đẹp.

    Tại sao có thể nói chúng ta phải tránh xa những nghiệp xấu ác mà không thể nói chúng ta phải tiêu trừ những nghiệp xấu ác? Trong chân lý của Phật giáo, có nói rằng luật nhân quả không bao giờ có thể chối từ được. Nhân và quả không thể tiêu diệt được. Nếu nói rằng có thể tiêu diệt được thì đó là một cái nhìn hạn hẹp. Vì vậy chúng ta chỉ có thể xây dựng một bức tường của nghiệp tốt, giống như xây dựng một bức tường bảo vệ. Bức tường của nghiệp tốt này có khả năng ngăn chặn chúng ta khỏi những nghiệp xấu.

    Vì vậy, chỉ bằng việc học hỏi từ Đức Phật, trau dồi cách hành xử của Đức Phật và cuối cùng trở thành một vị Phật chúng ta mới có thể thực sự được giải phóng khỏi nghiệp (nhân và quả) đã trói chúng ta vào vòng luân hồi. Nhân quả vẫn tồn tại khi một người trở thành một vị Phật. Tuy nhiên, nhân quả không ảnh hưởng tới một vị Phật. Ví dụ, khi vị Phật thấy những dãy núi gươm và biển lửa ở cõi địa ngục. Núi gươm và biển lửa vẫn tiếp tục tồn tại như một phương tiện tột cùng đau đớn cho những chúng sinh chịu sự trừng phạt của nghiệp báo. Khi vị Phật bỗng nhiên nhảy vào những núi gươm biển lửa này để chịu khổ thay cho những chúng sinh khác, núi gươm và biển lửa ngay lập tức biến thành ao sen đầy nước cam lồ. Chúng chuyển hóa sang một trạng thái tuyệt vời. Đối với một vị Phật, tất cả những duyên nghiệp xấu ác trở thành sự biểu hiện của nghiệp tốt. Không chỉ không còn khổ đau, thay vào đó là một sự biểu hiện của hạnh phúc lớn lao.

    Tu tập là để thoát khỏi vòng luân hồi, giải phóng các con khỏi tất cả những đau khổ, trở thành một bậc thánh và kiên trì cho đến khi các con trở thành một vị Phật. Để thoát khỏi vòng luân hồi, chúng ta cần tạo ra một tâm từ bỏ (một tâm quyết định rời vòng luân hồi), một tâm xác tín, một tâm với những lời nguyện không thể lay chuyển, một tâm tinh tấn và một tâm bồ đề của Đại thừa. Tất cả những trạng thái thực sự xuất phát ra từ những tâm này dựa vào và đặt nền tảng trên chính kiến. Không có chính kiến, tất cả những trạng thái của tâm sẽ bị đảo ngược và bối rối. Nói cách khác, các con sẽ không kinh nghiệm được bất kỳ hiệu quả ích lợi nào từ việc tu tập nếu thiếu chính kiến.

    Ví dụ nếu các con muốn thực hành bồ đề tâm trước, các con sẽ không thành công. Nó sẽ dẫn đến một bồ đề tâm trống rỗng và ảo tưởng, một trạng thái bị lừa dối và sai lầm của tâm. Bởi vì tâm bồ đề phải được đặt nền tảng dựa trên tâm từ bỏ. Nghĩa là các con phải có một tâm thực sự quyết tâm đạt được sự giải thoát, đạt được sự thành tựu về pháp và thoát khỏi mọi đau khổ của luân hồi. Các con phải hiểu sâu sắc rằng vòng luân hồi thực sự đau đớn không thể nào miêu tả hết. Không chỉ các con chịu khổ đau mà tất cả chúng sinh trong sáu cõi luân hồi, mỗi chúng sinh mà chúng ta coi là cha và mẹ, đều chịu khổ đau như vậy trong trạng thái đau đớn của vô thường. Chỉ khi các con muốn giải thoát chính mình ra khỏi đau khổ các con mới thực sự tu tập cho chính các con. Chỉ khi đó các con mới thực hiện những hạnh Bồ tát để làm lợi lạc cho các con và người khác. Chỉ khi đó bồ đề tâm mới được phát khởi.

    Tuy nhiên, sẽ là một lỗi lầm nếu các con bắt đầu từ một tâm từ bỏ. Điều đó không tuân theo trình tự đúng đắn của việc tu tập. Nó sẽ tạo ra một dạng mong muốn lý thuyết, không thiết thực để thoát khỏi vòng luân hồi và một trạng thái tự lừa dối, tự bối rối của tâm. Trong trường hợp này, các con không thể tạo nên một trạng thái đích thực của tâm quyết định thoát khỏi vòng luân hồi.

    Vì vậy, nếu các con muốn trạng thái thực này của tâm quyết định rời luân hồi, đầu tiên các con phải hiểu về vô thường. Bước tiếp theo là có một tâm xác tín. Các con cần tin chắc vào sự đau khổ của luân hồi, vì nó có nguồn gốc từ vô thường. Chỉ khi có một tâm xác tín các con mới sợ sự đau khổ gây ra bởi vô thường và đạt đến một trạng thái tâm thực sự sợ vô thường. Khi đã đạt được trạng thái tâm thực sự sợ vô thường, tâm xác quyết muốn thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử sẽ phát triển ngày một mạnh mẽ. Một cách tự nhiên, trạng thái tâm quyết rời bỏ vòng luân hổi sinh tử sẽ đi vào trạng thái thực sự sợ vô thường. Nếu những chúng sinh không hiểu mọi pháp có tính điều kiện trong vũ trụ đều vô thường, nếu họ không hiểu sự đau khổ của vô thường và luân hồi, họ không thể tạo ra một tâm xác quyết để hình thành những suy nghĩ muốn thoát khỏi vòng luân hồi. Nếu như các con không bao giờ nghĩ về việc rời khỏi vòng luân hồi, các con sẽ không trau dồi gì cả, các con cũng không muốn học đạo Phật. Những người không học đạo Phật không hề có mong muốn thoát khỏi luân hồi. Làm sao một người không học đạo Phật có được tâm xác quyết rời luân hồi? Vì vậy, các con không thể trau dồi một tâm xác quyết rời khỏi luân hồi. Cũng như ngay từ bước đầu tiên, các con sẽ không đi vào đạo Phật nếu không có tâm hiểu vô thường (Thực sự khởi lên cảm giác sợ vô thường và thực sự khởi lên trạng thái sợ vô thường). Ngay cả nếu các con trở thành Phật tử, các con sẽ không có được mức độ sâu sắc của việc tu hành đúng đắn.

    *

    Để hiểu được thế nào là tu tập, các con phải hiểu tám cái nhìn đúng đắn cơ bản liên quan đến học đạo Phật và tu tập.

    Đầu tiên là ý thức về vô thường.

    Thứ hai là tâm xác tín.

    Thứ ba là tâm từ bỏ (tâm quyết định rời khỏi vòng luân hồi).

    Thứ tư là tâm với những lời nguyện đúng đắn.

    Thứ năm là tâm tinh tấn.

    Thứ sáu là giới luật.

    Thứ bảy là thiền định.

    Thứ tám là bồ đề tâm.

    Nhận ra tám pháp này và thực hiện chúng với chính kiến là thực tập Phật pháp đúng đắn. Tám cái nhìn đúng đắn cơ bản này, là điều không thể thiếu được với người tu tập, và không được làm sai trình tự.

    Tất cả quả có được từ tâm ý thức về vô thường là nhân của tu tập.

    Tất cả quả có được từ tâm xác tín là nhân của sự kiên định không thay đổi.

    Tất cả quả của tâm từ bỏ là nhân của việc giải thoát.

    Tất cả quả từ tâm của những lời nguyện đúng đắn là nhân của các hành động.

    Tất cả quả từ tâm tinh tấn là nhân của sự tiến bộ bền vững liên tục.

    Tất cả quả có được từ việc tuân theo giới luật là nhân của việc tu tập đúng hướng.

    Tất cả quả có từ thiền và chính định là nhân của trí huệ.

    Tất cả quả của bồ đề tâm là nhân dẫn đến việc trở thành một vị Bồ tát.

    Tám cái nhìn đúng đắn căn bản này là nền tảng của tu tập, giải thoát và thành tựu trong pháp. Nếu như gốc rễ không đúng, tu tập không thể được thành lập. Vì vậy, tu tập không thể sai trình tự. Do đó tham gia vào tám bước căn bản của tu tập phải được hướng dẫn bởi các chính kiến. Nghĩa là được hướng dẫn bởi cách hiểu đúng và cách nhìn đúng, các con phát triển sự tu tập đúng đắn bằng việc đi qua tám bước cơ bản này theo đúng thứ tự của nó. Đó chính là tu tập. Trong sự tu tập của các con, các con phải liên tục đưa bồ đề tâm vào thực hành. Bởi bồ đề tâm là nền tảng để trở thành một vị Bồ tát.

    Theo như sự diễn giảng của đức Phật về pháp, ý nghĩa thực sự của bồ đề tâm là: đó là nguyên nhân tất yếu dẫn đến việc ta trở thành một vị bồ tát. Bất cứ ai đi trên các con đường giác ngộ cuối cùng sẽ gặt quả giác ngộ. Ý nghĩa rộng của bồ đề tâm bao gồm tất cả pháp đại thừa liên quan đến việc giải cứu chúng sinh bằng tâm từ bi vĩ đại và nguyên nhân dẫn đến các mức độ giác ngộ của một Bồ tát.

    Tuy nhiên, bởi sự không đủ phước đức của chúng sinh, một số ý nghĩa đầy đủ vốn có của Phật pháp đã bị thất lạc trong quá trình truyền lại giữa các thế hệ. Đặc biệt trong thời Mạt Pháp này, nghiệp của chúng sinh trong ba cõi của vũ trụ giống như một đại dương đầy sóng gió, thật khó cho chúng linh để có thể gặp được Phật pháp đích thực. Điều này cũng giống như một các con rùa mù bơi trong biển nổi lên và tra cổ đúng vào một cái vòng trên một tấm gỗ đang trôi nổi. Thực vậy, hiện giờ cực khó để có thể gặp được Phật pháp hoàn hảo. Kết quả là, ý nghĩa của bồ đề đã bị giảm bớt. Nó đã bị giảm liên tục từ nghĩa rộng xuống nghĩa hẹp của pháp bồ đề tâm.

    Có hai dạng của tâm bồ đề. Bồ đề tâm với nghĩa cao quý và bồ đề tâm với nghĩa thế tục. Bồ đề tâm với nghĩa thông thường có thể được chia thành “bồ đề tâm nguyện (lời thề)” và “bồ đề tâm hạnh (hành động).” Cho dù đó là bồ đề tâm cao quý hay bồ đề tâm thông thường, nếu như các con được hướng dẫn bởi ‘hai tập hợp’ của bảy nhánh của bồ đề tâm, đó chính là bồ đề tâm cao nhất, tuyệt vời nhất và đầy đủ nhất.

    Mỗi chúng sinh trong sáu cõi của luân hồi sống trong tam giới của hiện hữu đều có quyền tu dưỡng bồ đề tâm. Tuy nhiên, phần lớn chúng sinh không có đủ các điều kiện về nghiệp, do đó họ thực hành một phần nhỏ, rất hạn chế của pháp bồ đề tâm. Và kết quả là, họ thường dung dưỡng những cách hiểu sai lầm, chẳng hạn như chỉ những ai có tâm giác ngộ mới có thể thực hành bồ đề tâm và bồ đề tâm chính là trạng thái pháp thân của giác ngộ. Tất nhiên, chúng ta không từ chối những phần đã tồn tại này của bồ đề tâm. Tuy nhiên, những nhận thức này hạn chế việc thực hành pháp bồ đề tâm với những người chưa có tâm giác ngộ. Quan trọng hơn, bồ đề tâm không phụ thuộc vào tâm giác ngộ hay chưa giác ngộ. Bồ đề tâm là sức mạnh của những thề nguyện từ lòng đại bi bởi chúng sinh học đạo Phật ở bất cứ cõi nào trong sáu cõi luân hồi trong tam giới của vũ trụ, cũng như từ sức mạnh của những lời nguyện từ lòng đại bi của những bậc thánh trong cõi pháp giới. Bồ đề tâm là các hoạt động thực sự dựa trên lòng đại bi muốn giúp đỡ chúng sinh để trở thành Phật hoặc Bồ tát. Đó là tâm của tình thương theo nghĩa thiêng liêng mà cả những sinh linh chưa giác ngộ, đã giác ngộ hoặc những vị thánh hay người thường đều có.

    Với bồ đề tâm, những bậc đã giác ngộ sử dụng trạng thái giác ngộ của phẩm hạnh và thực chứng, của những thực hành đúng đắn và sự truyền bá chính pháp để dạy và giác ngộ chúng sinh để họ trở thành các vị Phật. Với bồ đề tâm, những người chưa giác ngộ thề nguyện với lòng đại bi rằng chúng sinh và chính họ sẽ cùng nhau thành tựu trong pháp và đạt được giải thoát. Họ giúp những người khác đi vào các con đường chính pháp của Phật. Với những người như vậy, pháp bồ đề tâm là đức hạnh của việc giúp đỡ những người khác thành tựu trong pháp. Bởi vì họ làm lợi cho người khác, họ sẽ nhận được lợi ích. Vì vậy họ tăng cường những nhân để dẫn dắt họ trở thành Bồ tát.

    Sự biểu hiện của bồ đề tâm được thể hiện qua những thực hành thực tế liên quan đến ba nghiệp, mà sự thực hành là phản chiếu của lòng đại bi. Bất cứ người tu tập thực sự nào, không kể họ là người thường hay bậc thánh, đều có quyền phát khởi bồ đề tâm và nên phát khởi bồ đề tâm. Bởi vì bồ đề tâm không phải là tâm giác ngộ mà chỉ những bậc thánh mới sở hữu. Thực tế đó chính là những hành động dựa trên lòng đại bi. Đó là sự gieo những nhân dựa trên lời thề nguyện rằng họ và những người khác trở nên giác ngộ. Bồ đề tâm không chỉ bao gồm mười phẩm tính tốt, bốn trạng thái tâm vô lượng, sáu ba la mật (hạnh hoàn hảo), và tứnhiếp phápcủa Bồ tát (bốn phương pháp mà bồ tát sử dụng để tiếp cận và cứu giúp chúng sinh). Hơn thế, nó bao gồm toàn bộ tam tạng kinh điển, toàn bộ giáo huấn bí mật, tất cả các pháp truyền khẩu, qua tai hoặc qua tâm để đem đến các hành vi từ bi rộng lớn, phù hợp với pháp, đem lại lợi ích và cứu giúp chúng sinh.

    Vì vậy, bồ đề tâm chính là chân lý tối thượng theo nghĩa rộng. Với một vị Phật, bồ đề tâm là ba thân, là trí tuệ hoàn hảo được tổng kết trong tứ diệu đế, là tâm của Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Với một vị Bồ tát, bồ đề tâm là lan truyền pháp và làm lợi cũng như cứu giúp chúng sinh bằng lòng đại bi. Với một người đã giác ngộ, bồ đề tâm là không bám chấp vào những thuộc tính hay đặc tính của sự vật và không lạc vào sự phù phiếm của trí óc hay sự tạo dựng các khái niệm. Đây là bản tính nguyên thủy của họ. Tính Không đích thực của bản tính nguyên thủy chính là sự hiện hữu tuyệt vời. Đó là chân lý tuyệt đối của mọi pháp có tính điều kiện. Chân lý này không sinh ra hay mất đi. Với một người bình thường, bồ đề tâm là sự từ bi giúp đỡ những người khác và thề nguyện rằng họ sẽ học đạo Phật và đạt được giải thoát.

    Các con phải có cái nhìn về vô thường trước khi các con có thể phát khởi bồ đề tâm. Các con phải hiểu về sự vô thường và đau khổ liên quan tới chính các con và những chúng sinh khác đang trong vòng luân hồi và vì vậy tạo ra một cách nhìn của sự tỉnh thức, một tâm ý thức về vô thường. Sau đó các con sẽ thề để thoát khỏi luân hồi. Kết quả là các con sẽ tạo ra một tâm xác quyết rời khỏi vòng luân hồi. Các con sẽ nói “Tôi quyết tâm rời bỏ”. Các con cũng sẽ muốn chúng sinh trong sáu cõi, những người như cha mẹ các con, rời bỏ nó. Các con hiểu rằng vòng luân hồi như một biển đắng, rất khó để tồn tại, và cực kỳ đau đớn. Bởi cái nhìn xác quyết này, các con sẽ tạo ra một nỗi sợ hãi mạnh mẽ và cấp bách. Các con sẽ tìm cách để giải thoát ngay lúc này.

    Nhưng các con hiểu rằng thực hành những hành động của Bồ tát là cách duy nhất để các con có thể nhanh chóng đạt được giải thoát khỏi vòng luân hồi. Do đó các con sẽ nguyện trở thành các vị Bồ tát. Các con sẽ tìm cách để nhanh chóng giác ngộ chính các con và người khác. Một cách tự nhiên, các con sẽ tạo ra một tâm bi mẫn lớn lao. Kết quả là, hạt giống của giác ngộ đã được gieo. Sự khởi phát của tâm bồ đề dựa trên một tâm bi mẫn lớn lao. Như đức Phật nói ”Nước của đại bi tưới hạt giống bồ đề. Kết quả là cây bồ đề sẽ có cành lá sum suê và sẽ ra rất nhiều quả.” Vì vậy, bồ đề tâm sẽ tự nhiên được hình thành. Bồ đề tâm là nhân dẫn đến việc trở thành một vị Bồ tát đại thừa. Các con sẽ có những cái nhìn trong sáng và đúng đắn và hiểu biết về việc tu tập. Các con sẽ tự nhiên nhận ra tính không như lai tạng, trạng thái của pháp thân. Với bồ đề tâm, các con tu dưỡng các hành vi của giác ngộ và đi vào các địa (giai đoạn) của một vị Bồ tát.

    Tu dưỡng bồ đề tâm yêu cầu sự thực hành. Tu tập bồ đề tâm không phải là chỉ tụng niệm nghi lễ, thề nguyện sáo rỗng, hoặc thực tập quán tưởng. Trong sự tu tập bồ đề tâm, phần quan trọng nhất là tự mình tra xét sâu sắc điều sau: “Thân thể tôi là vô thường, là thay đổi từng sát na, và sức lực ngày càng giảm sút, già đi và chết. Tôi so sánh tại sao mặt tôi đã già đi sau hơn mười năm, sau hơn bốn mươi năm, và sau hơn bảy mươi năm. Mức độ già lão của tôi đã thay đổi. Tôi sẽ sớm vào tuổi già, ốm yếu và chết rồi lại tiếp tục lăn lộn trong vòng luân hồi nơi tôi sẽ trải nghiệm khổ đau. Tôi cũng quán sát niềm vui ngây thơ, mới sinh, tươi tắn và cái hình thức sống động khi tôi là một đứa trẻ. Tôi quán sát tôi không còn bề ngoài trẻ trung đó nữa. Mặt và da tôi đã già. Sức lực tôi đã giảm. Tôi hay ốm. Đặc tính của tuổi trẻ đã biến mất. Sức mạnh của vô thường sẽ kết liễu cuộc đời tôi. Tất cả bà con họ hàng và bằng hữu của tôi sẽ lần lượt ra đi. Giống như một giấc mơ, nó sẽ sớm kết thúc. Tâm tôi tràn đầy sợ hãi. Với một tâm dứt khoát, tôi hành động theo các giới luật, thực hành theo pháp và thâm nhập bồ đề tâm bởi hai tập hợp của bảy nhánh pháp bồ đề tâm: Pháp Bồ đề tâm Đại bi cho tất cả chúng sinh như mẹ mình và Pháp Bồ đề tâm Bồ tát hạnh.”

    Khi thực hành Bồ đề tâm Đại bi cho mẹ mình, các con phải khởi lên lòng bi mẫn lớn lao và tu tập như sau: (1) tri mẫu, (2) tri ân, (3) báo ân, (4) từ ái, (5) từ bi, (6) xả tham, (7) đoạn chấp. Khi thực hành sự tu tập này, tất cả nên nhớ thực hành những điều sau cho chính mình:

    1. Tri mẫu (hiểu ai là mẹ mình): Tôi hiểu sâu sắc rằng tất cả mọi chúng sinh trong sáu cõi của luân hồi trong tam giới của vũ trụ đều là cha và mẹ của tôi từ vô thủy trôi lăn trong vòng luân hồi sinh tử.

    2. Tri ân: Tôi nên giữ một cách sâu sắc trong tâm rằng tất cả cha mẹ tôi (tất cả chúng sinh) đang trong vòng sinh tử đã từ vô thủy đã sinh tôi ra, nuôi dưỡng, yêu thương và già yếu đi vì tôi. Sự tử tế này của họ dành cho tôi sâu nặng như núi sông. Tôi nên giữ trong tâm sự tử tế của họ. Tôi sẽ xem những đau khổ của cha mẹ tôi (chúng sinh) là đau khổ của tôi.

    3. Báo ân: Tôi hiểu rằng cha mẹ tôi (chúng sinh) đã dành cho tôi mọi thứ. Hiện giờ họ đang trôi lăn và lạc lõng trong sáu cõi của luân hồi và chịu đựng vô số khổ đau. Tôi quyết tâm hành động để giác ngộ chính mình và người khác, cứu giúp và giải phóng cho cha mẹ tôi để báo đáp lại sự tử tế của họ dành cho tôi.

    4. Từ ái: Trong mọi lúc, bằng hành động của ba nghiệp, tôi yêu thương và tử tế với tất cả chúng sinh, những người đã từng là cha mẹ của tôi. Tôi cầu cho họ có một cuộc sống dài lâu không bệnh tật, giàu có, phước đức và hạnh phúc.

    5. Từ bi: Cả ngày lẫn đêm, tôi liên tục cầu xin tất cả chư Phật và Bồ tát ban phước cho những cha mẹ tôi để họ có thể giải thoát chính họ khỏi các loại khổ đau, gặp gỡ và thực hành Phật pháp, tự giải thoát họ khỏi sự đau khổ của vòng luân hồi.

    6. Xả tham (từ bỏ lòng tham): Tôi không giữ một bám luyến nào trong tâm về mọi thứ tôi làm để lợi ích cho chúng sinh, những người đã từng là cha mẹ tôi. Tôi tu tập sự không bám chấp vào tất cả những hành động tốt về thân, khẩu, ý của mình. Vì vậy, tất cả hành động tốt của tôi trở nên tự nhiên và tự phát, vì bản tính tự nhiên của tôi vốn là tốt đẹp. Tôi không làm điều tốt một cách có chủ ý. Tôi làm điều tốt và sau đó liền quên chúng đi.

    7. Đoạn chấp (Cắt đứt bám chấp): Trong sự thực hành của mình, khi tôi trau dồi mọi loại thiện hạnh (hành vi tốt đẹp) và làm lợi lạc cho những cha mẹ của tôi (tất cả chúng sinh), tôi không nên bám chấp vào bất cứ pháp nào. Tôi cần cắt đứt mọi bám chấp vào tự ngã. Nhận ra trạng thái của tính Không, tôi nhận thức và trải nghiệm niềm hạnh phúc tuyệt vời đến từ chính định. Dù thực hành pháp, tôi không bám chấp vào pháp. Tôi không chủ định thoát khỏi những suy nghĩ lầm lạc. Tôi không chủ định đi tìm sự thật. Không đến và không đi, hân hoan, sáng tỏ, và không suy nghĩ, tôi bình an như nước lặng. Tất cả mọi thứ, kể cả chính tôi, đều vốn trống rỗng, không có thực.

    Các điều kiện hỗ trợ để đem bồ đề tâm vào thực hành phải dựa trên chính kiến. Chúng ta hỗ trợ cho chúng sinh khi họ thực hiện những việc làm tốt, nhưng chúng ta không hỗ trợ hoặc giúp chúng sinh trong việc làm xấu của họ. Chúng ta chỉnh sửa hành vi của họ để họ có thể làm những việc tốt. Như thế, chúng ta làm tất cả những việc tốt để lợi ích cho chúng sinh. Chúng ta gieo những hạt giống tốt dẫn đến lợi lạc cho chúng sinh. Theo đó, chúng ta thực hiện bảy nhánh của Pháp Bồ tát hạnh. Chúng ta giúp chúng sinh thực hiện những việc tốt và giúp tăng những nhân lành của họ. Chúng ta giúp chúng sinh giảm việc tích tập những nghiệp xấu và giúp họ tránh xa những nhân dữ. Bảy nhánh của Pháp Bồ tát hạnh như sau:

    Nhánh thứ nhất là bồ đề tâm “Tôi và người khác bình đẳng”.

    Nhánh thứ hai là bồ đề tâm “Hoán đổi giữa tôi và người khác”.

    Nhánh thứ ba là bồ đề tâm “Làm lợi lạc cho người khác trước khi làm lợi cho tôi”.

    Nhánh thứ tư là bồ đề tâm “Hồi hướng công đức”.

    Nhánh thứ năm là bồ đề tâm “Bảo vệ pháp không sợ hãi”.

    Nhánh thứ sáu là bồ đề tâm “Dẫn dắt hiệu quả mọi người thực hành đúng đắn”.

    Nhánh thứ bảy là bồ đề tâm “Từ bỏ bản thân để giúp người khác tạo nghiệp tốt”.

    Khi thực hành sự tu tập này, mọi người nên thực hiện những điều sau:

    1. Bồ đề tâm “Tôi và người khác bình đẳng”: Khi có sự mâu thuẫn về quyền lợi giữa tôi và người khác, tôi sẽ tránh không mắc vào thái độ thù ghét, áp bức, tham lam, kiêu ngạo, chê bai. Tôi không được nhấn mạnh vào lợi ích của chính mình. Tôi cần đối xử bình đẳng với mình và mọi người.

    2. Bồ đề tâm “Hoán đổi giữa tôi và người khác”: Tôi muốn gánh chịu những đau khổ của mọi chúng sinh. Tôi cho người khác tất cả niềm vui và phước đức của tôi để họ thoát khỏi đau khổ và có được hạnh phúc.

    3. Bồ đề tâm “Làm lợi cho người khác trước khi làm lợi cho tôi”: Khi những chúng sinh khác và tôi chịu đau khổ, tôi muốn giúp họ thoát khổ trước khi tôi thoát. Khi những chúng sinh khác và tôi được hạnh phúc. Tôi muốn mọi người hạnh phúc hơn tôi.

    4. Bồ đề tâm “Hồi hướng công đức”: Tôi hồi hướng tới tất cả chúng sinh mọi công đức và thành tựu tôi tu tập được với hi vọng họ sẽ thoát khỏi khổ đau và đạt được giải thoát.

    5. Bồ đề tâm “Bảo vệ pháp không sợ hãi”: Khi những tinh linh ma quỷ muốn hại Phật pháp, dẫn chúng sinh phá giới và làm hại những chúng sinh dẫn đến sự đau khổ của chúng sinh, tôi sẽ giữ chính kiến, không sợ hãi sức mạnh ma quỉ của những tinh linh này, và sẽ tiến lên phía trước để bảo vệ Phật pháp và trí tuệ mà từ đó chúng sinh sẽ đạt được giải thoát.

    6. Bồ đề tâm “Dẫn dắt hiệu quả mọi người thực hành đúng đắn”: Bởi chúng sinh mang nặng những nghiệp chướng từ vô thủy, bởi họ vô minh và tạo ra nhiều nghiệp tiêu cực, sẽ có lúc họ không ăn năn hoặc thay đổi cách hành xử cho dù tôi đã động viên họ tích cực. Trong trường hợp này, tôi sẽ sử dụng những pháp đối trị uy lực để dẫn dắt những người này đến các con đường đúng đắn của pháp và những hành động tốt đẹp, lợi ích.

    7. Bồ đề tâm “Từ bỏ bản thân để giúp người khác tạo nghiệp tốt”: Khi sự chứng ngộ của người khác cao hơn của tôi hoặc khả năng cứu giúp chúng sinh tốt hơn tôi, tôi sẽ nhường cho họ để những chúng sinh có thể có lợi nhiều hơn. Khi đó, không một chút lưỡng lự, tôi nhường cho họ. Điều này làm tăng cường cho những điều tốt xảy ra.

    Bồ đề tâm, một phần của sự tu tập, là nguồn gốc của sự thành tựu trong thực hành pháp và vô cùng quan trọng. Ta sẽ đưa một ví dụ liên quan đến một vị rinpoche và một vị thầy giảng pháp. Vị rinpoche này đã tu tập hơn 30 năm. Ông đã nhận hơn một nghìn lễ quán đảnh bí mật. Ông ta chủ yếu thực hành pháp Đại Toàn Thiện (Dzogchen) của dòng Ninh Mã (Nyingma). Ông có thể giảng Phật pháp trong tam tạng kinh điển rất giỏi. Tuy nhiên, ông ta không có một pháp lực thực sự nào. Một người khác, một vị thầy giảng pháp,đã là một tu sĩ trong hơn 20 năm. Ông ta tuân thủ nghiêm ngặt các giới luật. Ông ta có thể giảng giải giỏi theo kinh (những bài thuyết pháp của đức Phật), luật (các giới luật) và luận (những lời luận giảng về lời dạy của đức Phật). Ông ta thực hành những pháp quan trọng và to lớn của mật tông Phật giáo Tây Tạng và là tu viện trưởng của một tu viện nổi tiếng. Giống như vị rinpoche, ông nổi tiếng trong việc giảng giải pháp. Tuy nhiên, ông ta cũng không có khả năng thể hiện một sự chứng ngộ thực sự nào.

    Ta nói với họ rằng cho dù họ thực hành bất cứ một pháp môn to lớn nào của mật tông thì vẫn giống như xây lâu đài trên cát. Một lâu đài như vậy không thể xây lên được. Ta nói với họ rằng cho dù họ có được một vài thành công tạm thời trong thực hành, nhưng nó sẽ nhanh chóng biến mất. Ta yêu cầu họ thực hành xả bỏ những kiến thức và cách hiểu biết theo thói quen bởi đó là những chướng ngại. Ta yêu cầu họ thực hành “Thế nào là tu tập?”

    Sau khi họ thực hành pháp này trong tám tháng, ta yêu cầu họ thêm vào thực hành pháp Đại Toàn Thiện (Dzogchen) và những pháp khác. Một điều kỳ diệu đã xảy ra sau đó. Trong cuộc kiểm nghiệm sự tiến bộ, vị rinpoche đã sử dụng Ấn Kim Cương Mãnh Lôi Thủ Chân Pháp và thể hiện năng lực vĩ đại. Sự thực chứng thực sự đã được thể hiện. Tuy nhiên, vị thầy giảng pháp vẫn chưa thể hiện được bất kỳ năng lực nào. Ông ta tiếp tục pháp tu tập này. Dưới sự chỉ dẫn cẩn thận của ta về những điểm còn yếu kém, cuối cùng ông ta đã hiểu ra tầm quan trọng của việc tu tập đích thực và bằng cách nào việc tu tập đích thực đòi hỏi sự cống hiến thời gian và sức lực trong việc thực hành ba nghiệp. Cuối cùng ông ta hiểu rằng không có chỗ cho sự trượt lui và thỏa hiệp. Ông ta tiếp tục thực hành ba tháng. Trong một lần thử để đo khả năng thể hiện sự thực chứng, năng lực của ông ta đã thể hiện một cách rõ rệt.

    Như vậy, bất kỳ ai cũng có thể tu tập theo cách này và thực hiện những thực hành theo đúng pháp sẽ có khả năng có được Phật pháp đúng đắn. Một cách tự nhiên, họ sẽ phát triển trí tuệ. Họ sẽ không tham gia vào những lý thuyết trống rỗng về Ngũ Minh. Thay vào đó, họ sẽ thể hiện trạng thái thực sự của kết quả trong Ngũ Minh. Một người như vậy sẽ thực chứng “sự thể hiện của hiện thực hoàn hảo (năng lực siêu nhiên)”, sẽ đạt quả bồ đề và đi vào địa của một vị Bồ tát.

    Những hành giả của mọi trường phái Phật giáo nên tuân thủ các quy tắc này của tu tập và nên thực hành bồ đề tâm. Nếu các con không tuân theo pháp của sự tu tập này theo đúng trình tự, các con sẽ dễ dàng bị bối rối và lạc đường. Một pháp như vậy là chìa khóa cho những cách thực hành tu tập.

    Học hỏi những phương pháp thực hành pháp là một vấn đề khác. Tất cả những kết quả ích lợi có được từ học pháp đều dựa trên tu tập. Khi các con thực hiện nghiêm ngặt y theo đúng pháp, các con sẽ tự nhiên thực chứng những phẩm hạnh và sẽ đạt đến trạng thái đích thực. Nếu các con không có những quy tắc đúng để tu tập, pháp mà các con học sẽ trở thành pháp dựa trên cái thấy sai lầm hoặc thậm chí pháp xấu xa của ma quỷ. Nếu các con thực hiện đúng với pháp của sự tu tập như đã nói trong bài này, pháp các con học sẽ là pháp tốt, các con đang tham gia thực hành Phật pháp. Tu tập cũng liên quan đến mười phẩm tính tốt, bốn trạng thái không giới hạn của tâm (tứ vô lượng tâm), sáu ba la mật (hạnh hoàn hảo), tứ nhiếp pháp của bồ tát (bốn cách các bậc Bồ tát sử dụng để tiếp cận và cứu giúp chúng sinh), v.v…

    Một vài đệ tử nghĩ rằng họ biết tất cả những pháp quan trọng ta đã giảng giải hôm nay về tu tập. Họ sẽ không nghiên cứu cẩn thận và thấm nhuần trọn vẹn vào cách nghĩ của họ sự tu tập mà ta đã nói. Thế mà, cái mong ước họ chứa chấp trong tâm vẫn là học được pháp vĩ đại để họ trở thành Phật trong chính đời này!

    Với những ai có cách nghĩ như vậy sẽ chỉ có những kiến thức hời hợt, sẽ rơi vào bối rối và sẽ lạc đường. Một người như vậy sẽ không học được Phật pháp đích thực. Cho dù học thực hành pháp vĩ đại, ví dụ như Đại Toàn Thiện (Dzogchen) của dòng Ninh Mã (Nyingma), Tâm trong Tâm của dòng Cát Cử (Kagyu), Đại Hoàn Hảo của Trí tuệ Tuyệt Diệu của dòng Tát Ca (Sakya), Thời Luân Kim Cương của dòng Cách Lỗ (Geluk), tham thiền của dòng Tổ sư thiền Phật giáo hiển thừa, tụng hồng danh đức Phật của dòng Tịnh độ, pháp của dòng Duy thức, hoặc thiền chỉ và thiền quán của Phật giáo nguyên thủy, họ sẽ không có được kết quả từ thực hành và sẽ không thể chuyển hóa nhận thức của họ thành trí tuệ. Như thế, họ sẽ chỉ đi loanh quanh trong trạng thái của một người bình thường. Họ sẽ không thể thể hiện một sự thực chứng nào, mà nguồn gốc của nó là trí huệ của Mật thừa hay Hiển thừa Phật giáo. Họ sẽ không thể thể hiện bất kỳ sự thành tựu nào trong Ngũ Minh. Họ sẽ chỉ có thể thể hiện như một người bình thường thể hiện. Thậm chí họ có thể ngu ngốc tới mức chỉ nhớ được những lý thuyết trong sách và nói về những lý thuyết trống rỗng, không có khả năng đem những lý thuyết này vào thực hành. Một người như vậy không thể thực sự làm được một điều gì. Cho dù họ có thể làm được một ít việc gì đó, họ cũng không thể vượt qua những người là chuyên gia về những việc đó trong thế giới này

    Hãy nghĩ về điều đó. Một người như vậy có là hiện thân của Phật pháp? Lẽ nào trí huệ đến từ Phật pháp lại thấp kém như vậy? Làm thế nào một người chưa phát triển trí huệ cao quý và vẫn còn nhận thức của một người bình thường có thể sở hữu pháp thực sự để giác ngộ người đó và những người khác? Tuy nhiên, nếu các con tham gia thực hành pháp theo đúng những quy tắc của sự tu tập, các con sẽ nhận được Phật pháp đích thực, sẽ trở nên thực sự giỏi giang trong hiển thừa và mật thừa Phật giáo, và có thể thể hiện sự hoàn hảo trong Ngũ Minh. Như vậy chúng ta phải hiểu việc tu dưỡng chính là nền tảng để học pháp, là nhân của giải thoát, là nguồn gốc của việc thực chứng trạng thái linh thánh.

    Hôm nay ta nói một cách ngắn gọn về chủ đề thế nào là tu tập. Ta đã giảng giải về chủ đề thực hành đúng đắn của bồ đề tâm, là một phần của tu tập. Ta không nói về những pháp khác. Có rất nhiều điều khác để ta dạy các con. Tuy nhiên nếu ta nói về những giáo lý khác trong cuốn sách này, nó sẽ không theo đúng giới luật và có thể dễ dàng tạo ra những nghiệp xấu do hành động thiếu tôn trọng giới luật này. Vì vậy, ta hy vọng tất cả những người học Phật giáo sẽ miệt mài nghiên cứu Tam tạng kinh điển và các giáo lý mật thừa hoặc nghe những bài giảng đã được ghi lại của ta về pháp. Nếu như các con chăm chú lắng nghe những bài giảng pháp này bằng cả trái tim, trong vòng mười ngày các con sẽ đạt được một mức độ an lạc hoặc sự an lạc tuyệt diệu của giác ngộ vĩ đại. Nếu các nhân duyên đã đầy đủ, các con sẽ trải nghiệm những kết quả ích lợi trong toàn bộ đời sống hoặc thậm chí đạt được thành tựu lớn, giải thoát, và Phật quả.

    Bây giờ khi các con đã học về pháp của sự tu tập này, các con có muốn thực hành nó? Bất kỳ ai khi tham gia vào tu tập thực sự đều có thể trở nên hoàn hảo trong pháp và đạt được sự giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu một cách rõ ràng điều này. Cho dù các con đã đọc “Thế nào là tu tập?” và cho dù các con đã đọc tám điều cơ bản của tu tập và hai tập hợp của bảy nhánh dựa trên cái thấy đúng đắn, đó gọi là “đọc những sách vở liên quan đến thực hành”. Đó không phải là tu tập. Nếu các con hiểu những nguyên tắc liên quan đến tu tập, đó gọi là “hiểu lý thuyết về thực hành”. Đó cũng không phải là tu tập. Nếu các con bắt đầu thực hiện pháp tu tập này theo như đúng nội dung của nó, đó vẫn chưa phải là tu tập. Đó gọi là “bước vào quá trình của tu tập”. Nếu các con cố gắng hết khả năng để áp dụng lòng bi mẫn lớn lao tương ứng với pháp tu tập này, đó gọi là “tu tập thô”. Nó vẫn chưa phải là tu tập đúng cách và đúng đắn. Nếu như các con không cần phải cố gắng hết sức trong việc áp dụng lòng bi mẫn lớn lao, nếu như các con thực hiện hoàn hảo một cách tự nhiên, không cố gắng tám điều căn bản của tu tập và hai tập hợp của bảy nhánh theo như đúng pháp, thì đó gọi là “tu tập”.

    Tại saongay cả khi đã cố gắng hết sức để tu tập vẫn không gọi là “tu tập” mà chỉ được gọi là “tu tập thô”? Bởi vì từ vô thủy tới nay, sức mạnh của nghiệp và những chướng ngại của vô minh (thiếu hiểu biết) đã cản trở người tu tập. Vì vậy, họ không thể từ bỏ được lòng tham (mong muốn ích kỷ), sân (tức giận hay ác cảm), và si (bị đánh lừa). Họ không thể từ bỏ sự bám chấp vào bản ngã. Điều này tạo ra sự chướng ngại dựa trên các phiền não. Điều này cũng tạo ra sự chướng ngại bắt nguồn từ chính kiến thức và thói quen hiểu biết của họ. Những chướng ngại về nghiệp này trùm lên hết tất cả các chính niệm (suy nghĩ đúng đắn) của những hành giả này. Kết quả là, quá trình áp dụng mỗi một điều trong những luật lệ tu tập này thật khó khăn cho những hành giả này. Chính bởi vì những khó khăn này, họ chọn phương pháp sử dụng sự cố gắng cao nhất để thực hiện việc tu tập. Sử dụng sự cố gắng hết sức theo cách này giống như một hòn sỏi thô ráp từ trong ra ngoài chứ không phải một viên đá quý đã được mài giũa và đánh bóng. Thực hiện một phần trong tám điều cơ bản của sự tu tập và hai tập hợp của bảy nhánh mà không thực hiện những phần khác cũng không được gọi là tu tập đúng đắn. Đó là lý do tại sao nó được gọi là “tu tập thô” hay “tu tập không đầy đủ”.

    Hiểu cặn kẽ các qui luật của tu tập, không thực hiện chúng một cách ép buộc, và thực hiện tự nhiên tám điều cơ bản của tu tập và hai tập hợp của bảy nhánh theo đúng như pháp chính là tu tập đúng đắn, nó không bị bám chấp vào cái tôi và nó vượt qua các chướng ngại. Đó là con đường Bồ đề (giác ngộ). Như vậy, mỗi ngày hành giả nên tự xem xét Bồ đề tâm Lòng bi mẫn lớn lao cho tất cả chúng sinh như mẹ của tôi và Bồ đề tâm Bồ tát hạnh. Họ nên chiêm nghiệm dựa trên hai tập hợp của bảy nhánh, tự hỏi mình liệu họ đã thực hiện đúng với pháp hay chưa? Nếu như các con không thể thực hiện những quy định theo đúng với pháp được giảng ở đây, nó thể hiện các con đã đi vào trạng thái “tu tập thô”. Nếu như các con không thực hiện đầy đủ các quy định này thì sự tu tập của các con là tu tập không đầy đủ. Các con sẽ không thể thành tựu trong pháp và được giải thoát khỏi vòng luân hồi với sự tu tập không đầy đủ như vậy. Cho dù các con có được một số thành tựu nhỏ, các con cũng không thể có được phước đức và trí tuệ lớn, sức mạnh siêu nhiên và thực chứng Ngũ Minh.

    Nếu như các con tự xem xét mỗi ngày về hai tập hợp của bảy nhánh, và không thực hiện chúng một cách ép buộc, có một lòng bi mẫn lớn lao, theo những điều tốt một cách tự nhiên, và thực hiện hai tập hợp của bảy nhánh một cách tự nhiên và đúng với pháp, thì đó chính là tu tập thực sự và thực hành đầy đủ. Các con sẽ dễ dàng có được sự giải thoát, trở thành một bậc thánh và có được phước đức và trí tuệ. Theo đó các con sẽ có thể thực chứng Ngũ Minh. Các con sẽ chắc chắn đến địa của một vị Bồ tát. Thêm nữa, các con nên biết “đọc những sách vở liên quan đến thực hành”, “hiểu lý thuyết của thực hành”, “bắt đầu thực hành” và “thực hành thô” thì dễ. Thực hành hai tập hợp của bảy nhánh một cách hoàn hảo và không bám chấp thì khó. Thực ra, khi các con bỏ được sự bám chấp vào cái tôi, các con ngay lập tức đi vào sự tu tập đúng đắn đích thực. Làm sao điều đó có thể khó được? Mọi người đều có thể làm được nó!

    Khi các con tự xem xét hàng ngày, các con có thể sử dụng những bạn đồng tu mà các con quen biết, những người các con chơi cùng, những người không tốt với các con, những duyên nghiệp tiêu cực, bất cứ duyên hay người nào làm các con không hạnh phúc, hoặc những người các con thấy khó có thể chơi cùng, những người không nói chuyện với các con hoặc các con không nói chuyện cùng… như là đối tượng để tự xem xét. Các con phải dùng họ như những đối tượng của sự thực hành, tự hỏi mình: ”Ngày hôm nay tôi đã hành xử theo đúng với hai tập hợp của bảy nhánh và trong việc tôi chủ động thể hiện thiện ý của tôi với những người này? Khi tôi chủ động đến gần người đó và họ tấn công tôi bằng những lời gây phiền lòng, tôi có kiên nhẫn chịu đựng những sự xúc phạm này và tấp tục tiếp cận họ để thể hiện thiện ý hay không?” Các con không được giữ bất kỳ mối ác cảm nào do những lời nói và hành động gây phiền lòng, xúc phạm gây ra. Nếu mỗi ngày các con thực hiện bồ đề tâm mà không nhụt chí, thực hiện hai tập hợp của bảy nhánh qua ba nghiệp về hành động, lời nói, và suy nghĩ, và thực sự tu dưỡng chính các con theo đúng như pháp theo một cách thực sự và cụ thể, thì các con sẽ rất dễ học Phật pháp tối cao. Trong trường hợp như vậy, bồ đề tâm và địa của một vị Bồ tát tự nhiên sẽ trở thành của các con. Đó chính là tu tập.

    *

    Ta đã kết thúc bài thuyết pháp về sự tu tập để lợi lạc cho mọi chúng sinh. Tuy nhiên, có một loại vấn đề sẽ gây hại cho chúng sinh thường hay xảy ra. Ta đang nói đến vấn đề sử dụng danh của ta để làm hại đến quyền lợi của chúng sinh. Ta muốn kêu gọi sự chú ý một lần nữa tới vấn đề đặc biệt quan trọng này mà mọi người phải xem xét nghiêm túc.

    Trên thế giới này, hiện có một số vị pháp vương, những tôn giả, những rinpoche, những thầy giảng pháp và ngay cả những cư sĩ đã tuyên bố họ là những người đi theo ta và được ta tin tưởng. Họ có thể tuyên bố họ đại diện cho ta để xử lý một vấn đề nào đó. Họ có thể tuyên bố họ mang theo một thông điệp nào đó từ ta. Hoặc họ có thể tuyên bố họ nói lại lời ta. Trên thực tế, ta có những đệ tử trong cả hiển thừa và mật thừa Phật giáo ở trong mỗi một dòng chính yếu. Cho dù địa vị của người tuyên bố những điều này có cao quý và phẩm hạnh của họ có lớn lao thế nào đi nữa, không ai có thể đại diện cho ta. Điều này áp dụng cho cả những vấn đề nhỏ nhặt!

    Chỉ khi một người có một tài liệu có mục đích cụ thể mà ta đưa cho họ trong đó nói rõ rằng họ đại diện cho ta để xử lý một vấn đề nào đó, tài liệu đó có chữ ký và dấu vân tay của ta, và tài liệu đó đi kèm với một băng video thì họ mới có thể đại diện cho ta trong việc giải quyết vấn đề cụ thể ghi trong tài liệu đó. Nếu không như vậy, cho dù địa vị của một pháp vương, tôn giả, rinpoche hoặc thầy giảng pháp có cao thế nào đi nữa, sự giảng giải về pháp của họ không đại diện cho cái nhìn của ta và không được coi như là tiêu chuẩn của cái hiểu đúng và nhìn đúng. Ta biết một cách không định kiến rằng những bài giảng hoặc bài viết của ta là pháp đích thực. Bởi vì những bài giảng và bài viết của ta thực sự đem lợi ích và giải thoát cho chúng sinh. Thêm nữa, bất kỳ ai cũng không được sử dụng bất kỳ phương pháp nào để thêm, bớt hoặc chỉnh sửa bài viết hoặc bài giảng của ta. Bất kỳ ai vi phạm điều được nói trên đây chắc chắn là người với cái thấy sai lạc và là người đã rơi vào các con đường xấu, cho dù địa vị người đó cao thế nào đi nữa.

    Vì vậy, một người có thể đại diện ta chỉ khi tất cả mọi người tự nhìn thấy một tài liệu có dấu tay và có những bằng chứng rõ ràng dưới dạng một bản ghi âm hay băng video có ghi lời của ta liên quan tới tài liệu đó. Nếu không, cho dù người đệ tử đó là ai, kể cả những đệ tử có phẩm hạnh cao quý đã ở bên ta một thời gian dài, tất cả mọi điều họ nghĩ, nói, làm, hoặc viết thì chỉ là hành động riêng của họ và hoàn toàn không đại diện cho ta!


    Source: TP
    Read more »
  • Giáo huấn Dakini - Rất cần thiết Hành Giả thực tập Mật Thừa

     

    TU TÂM THEO KIM CƯƠNG THỪA

    Sự Tu Tâm Vô Thượng Trí Của Mât Thừa

    Những Giáo Huấn Về Thực Hành Một Bổn Tôn
    Với Những Thuộc Tính

    NAMO GURU DHEVA DAKINI HUNG.

    Đạo sư vĩ đại Padmakara đã thành tựu giai đoạn phát triển và thành tựu, và đã đạt được năng lực phô diễn của tánh giác tự nhiên. Ngài đã đạt đến tất địa an trụ trong thân tướng mahamudra. Trong hư không của sự biểu hiện, Ngài nô đùa với toàn thể hiện tượng và hiện hữu. Vì lợi ích của nhà vua và công chúa đương thời cũng như  cho những thế hệ tương lai, Ngài đã ban cho công chúa xứ Kharchen, Công Chúa Tsogyal những giáo huấn chân thật này, Sự tu hành tâm Vô Thượng theo Kim Cương Thừa.

    Công Chúa Tsogyal nói: Emaho, Thưa Đại Sư! con khẩn cầu những khẩu truyền của Ngài về sự thực hành Bổn Tôn cùng với những thuộc tính. Vì hành giả sẽ không đạt tất địa nếu không dựa vào một Bổn Tôn Yidam, chúng con nên thực hành một Bổn Tôn Yidam ra sao?

    Vị Thầy đáp: Sự thiền quán về Bổn Tôn Yidam với những thuộc tính có hai loại: sự thiền quán tiệm tiến cho một người khả năng tâm thức kém và sự thiền quán về thân bất nhị của người có khả năng lớn hơn.

    NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG TÂM THỨC KÉM

    Người có khả năng tâm thức kém nên tu hành trong bồ đề tâm, tức sự quý báu của tâm giác ngộ. Khởi đầu, dù ở đâu hành giả nên rửa tay, súc miệng, rửa mặt, với cam lồ bí mật hay nước trong tịnh bình và ngồi kiết già hoặc bán già trên một chỗ ngồi thoải mái.

    Sau đó nên hướng tâm con đến chúng sanh trong tam giới luân hồi đã vướng mắc vào khổ đau và những nguyên nhân của đau khổ. Trước tiên hãy hình thành ý nghĩ của bồ đề tâm: Để đưa tất cả chúng sanh ra khỏi luân hồi, con sẽ thực hành thân tướng của Bổn Tôn Yidam! Kế tiếp trau dồi lòng bi thương xót tất cả chúng sanh, tình thương (từ) muốn họ thoát khỏi đau khổ, hoan hỷ muốn họ gặp được hạnh phúc, tính không thiên vị (xả) muốn họ không xa rời hạnh phúc.

    Sau đó tụng ba chủng tự OM AH HUNG, kế tiếp đảm đương niềm tự hào mình là vị Bổn Tôn Yidam rồi quán tưởng chủng tử tự riêng của vị đó trên một hoa sen, một mặt trời, và một mặt trăng ở giữa ngực vị Yidam.

    Kế đó quán tưởng ánh sáng chiếu ra từ chủng tử tự, tất cả chư Phật, Bồ Tát an trụ trong mười phương cũng như tất cả chư Guru, Yidam, và Dakini đều hiện diện trên bầu trời phía trước con. Hãy đảnh lễ và cúng dường đến các Ngài, sám hối những sai phạm, hoan hỷ trong công đức của các Ngài, thọ quy y nơi Tam Bảo, khẩn thỉnh các Ngài chuyển Pháp luân, khẩn cầu các Ngài đừng nhập niết bàn, phát  khởi bồ đề tâm, và hồi hướng thiện căn. Phụng tống vị Thầy và những vị khác, và để sự quán tưởng lắng xuống hay tan hòa vào trong con tùy theo cách nào thích hợp. Những bước này tất cả đều là phương diện tích lũy công đức.

    Sau đó, để tích lũy trí tuệ, hãy để thân con trở thành bản tánh của ánh sáng nhờ những tia sáng chiếu ra từ chủng tử tự nơi giữa ngực con. Ánh sáng cũng chiếu vào mười phương nhờ đó mọi sự vật trong thế gian cũng như tất cả chúng sanh trở thành bản tánh ánh sáng. Sau đó, ánh sáng này được tất cả chư Phật và Bồ Tát trong mười phương ban phước.

    Về việc hòa nhập lại ánh sáng vào con, thế gian trở thành ánh sáng, thấm nhập vào chúng sanh, họ hóa tán vào con, và ánh sáng của thân con tan hòa giống như sự bốc hơi nước trên mặt gương. Rồi dần dần hóa tán vào tòa ngồi mặt trăng, kế tiếp là mặt trời và mặt trăng, sau đó hòa tan vào chủng tử tự. Kế tiếp tan hòa vào hình lưỡi liềm và bindu (Giọt ánh sáng). Ánh sáng của bindu là của bản tâm, kích thước bằng một phần trăm của đầu sợi tóc. Hãy quán tưởng điều này nhiều lần.

    Khi sự quán tưởng của con không rõ ràng, hãy niệm mantra tánh Không (shunyata), v.v.., sau đó hãy để sự quán tưởng tan biến

    Quả của hai thân là do hoàn thiện hai loại tích lũy này.

    Từ trạng thái của tánh Không này, hãy quán tưởng bản tâm con hiện diện như chủng tử tự của vị Bổn Tôn Yidam hay quán tưởng chủng tử tự chuyển hóa thành một thuộc tính biểu tượng được chạm nổi với chủng tử tự. Từ sự chuyển hóa này, tạo ra đầy đủ vị Bổn Tôn Yidam riêng của con với đầu, những thuộc tính, v.v.., sau đó là chủng tử tự trên một dĩa mặt trời hay mặt trăng trên một hoa sen giữa trung tâm của Bổn Tôn.

    Những tia sáng chiếu ra từ đó cầu thỉnh tất cả chư Như Lai, Guru (đạo sư), Bổn Tôn Yidam, Dakini của mười phương trong bầu trời phía trước con. Sau đó dâng cúng các Ngài năm loại cúng dường. Mời thỉnh Bổn Tôn trí tuệ và khẩn cầu chư vị an tọa.

    Quán tưởng chư Như Lai ban quán đảnh và trên đỉnh đầu con là vị Phật thống nhiếp của gia đình (bộ). Sau đó khẩn thỉnh phụng tống các Ngài.

    Tiếp theo sau, quán tưởng ba chủng tử tự trên dĩa mặt trời ở giữa đỉnh đầu, cổ họng, và ngực của con. Thánh hóa chúng như thân, khẩu, ý. Tập trung chú tâm một điểm vào vị Bổn Tôn Yidam.

    Sau đó, khi cảm thấy thiền định mệt mỏi, hãy tụng niệm.

    1. Sự tụng niệm vajra lầm thầm là tụng niệm chỉ ở vùng cổ có thể nghe được.
    2. Tụng niệm vajra với âm điệu êm tai là tụng niệm với giai điệu như vào lúc thực hành đại hoàn thiện.
    3. Tụng niệm vajra bí mật là niệm thầm trong tâm.
    4. Tụng niệm như luân xa là quán tưởng rằng âm thanh xuất hiện qua miệng con, đi vào rốn, và tan hòa lại vào giữa ngực.
    5. Tụng niệm như tràng hoa là xoay vòng mantra quanh chủng tử tự ở giữa ngực và niệm nhất tâm trong lúc tập trung tâm con vào những chủng tự.
    6. Tụng niệm tập trung vào âm thanh là trong lúc niệm chỉ tập trung tâm con vào âm thanh của mantra.

    THỰC HÀNH GIỮA THỜI

    Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Chúng con nên làm gì trong khoảng giữa thời thiền quán về vị Bổn Tôn Yidam?

    Đạo Sư khuyên: Khi con không thể trì tụng, hãy cúng dường torma, tán thán sau khi rung chuông. Khi phụng tống Bổn Tôn trí tuệ, hãy an trụ với tư duy ý niệm bình thường của con.

    Sau đó, khi con muốn cúng dường để hoàn tất, hãy đặt một bức hình, bức tượng, hay kinh điển phía trước con và làm một mandala với nước thơm và rải hoa. Trong một thoáng, hãy tự hào là một Bổn Tôn Yidam và chiếu ra những tia sáng từ chủng tử tự giữa ngực con. Cầu thỉnh tất cả pháp thân và sắc thân an trụ trong mười phương. Khẩn cầu pháp thân trụ trong pháp khí và kinh điển. Khẩn cầu sắc thân trụ trong tranh, tượng.

    Hãy quán tưởng vô số tập hội chư Phật, Bồ Tát, các Tổ, Yidam, và Dakini ở trong mười phương lưu lại trước mặt con. Dâng cúng các Ngài bất kỳ vật cúng dường nào con có, thực hiện bảy tịnh hóa[33]  trước sự hiện diện của các Ngài.

    Vào lúc này, con có thể cúng dường torma đến vị Bổn Tôn Yidam. Dâng các vị Hộ Pháp torma nước, làm tượng tsa tsa, tượng đất sét hay những thực hành khác như vậy.

    Sau đó nếu muốn tụng các lời của chư Như Lai, hãy quán tưởng rằng chỉ trong chốc lát lưỡi con trở thành hư không, từ đó xuất hiện chữ HUNG và chày vajra một chấu. Quán tưởng rằng niệm những bài tụng này xuất ra từ chủng tử tự qua ống của chày vajra. Vô lượng những phân thân của con tràn ngập hàng tỉ vũ trụ, mỗi thân có một chày vajra trong miệng. Quán tưởng rằng tất cả chúng sanh đều nghe được và họ được giải thoát khỏi luân hồi. Đó là nghi lễ niệm kinh.

    Tất cả những bước này đều là thực hành Pháp thực hiện trong giữa thời hoặc khi làm những hoạt động hàng ngày.

    NIÊM ẤN GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN

    Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Chúng con nên niêm ấn giai đoạn phát triển với giai đoạn hoàn thiện như thế nào?

    Vị Thầy khai thị: Hành giả nào muốn thực hành giai đoạn thành tựu nên quán tưởng tự thân trong tướng Bổn Tôn, khẩn thỉnh Bổn Tôn trí tuệ rời khỏi (phụng tống). Hóa tán nguyện hữu tình thành ánh sáng, trở thành chủng tử tự của Bổn Tôn hoặc một chữ HUNG. Chữ HUNG tan hòa dần thành bindu. Bindu nhỏ dần thành tánh không trong sáng. Từ trong trạng thái này, hãy an trú trong “tính như thị của mọi hiện tượng”, trống không, tự nhận biết vô niệm vượt lên những cực đoan của hiện hữu và phi hiện hữu. Thường xuyên hãy tự nhắc mình tương ứng với những hướng dẫn khẩu truyền về giai đoạn thành tựu mà con nhận được từ Thầy mình.

    Nếu con, hành giả làm như vậy, thực hành ba hay bốn thời một ngày, thì ngay trong kiếp này hay không bị gián đoạn bởi những tái sanh khác, con sẽ an trú trong đại yoga trong trạng thái trung ấm và đạt được thân mahamudra của vị Bổn Tôn Yidam. Ngay cả dù năng lực của giai đoạn phát triển của con chưa hoàn toàn viên mãn, trong kiếp tới con sẽ trụ trong trạng thái đại yoga và chắc chắn đạt được cấp mahamudra của Vidyadhara.

    Tất cả những bước này là những khai thị về những giai đoạn tuần tự của thiền định cho những người khả năng tâm thức đơn giản.

    NGƯỜI CÓ KHẢ NĂNG TÂM THỨC CAO NHẤT

    Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Người có khả năng tâm thức cao nên thực hành ra sao?

    Đạo Sư đáp: Khi một người có tâm thức cao nhất thiền quán về một Bổn Tôn, họ không quán tưởng từng bước. Đơn giản chỉ tụng tâm chú, một câu chú, hay đơn giản chỉ muốn hay nghĩ về vị Bổn Tôn, là họ thấy Bổn Tôn một cách sinh động mạnh mẽ, lập tức, và tự-hiện hữu, giống như một bọt nước xuất hiện từ nước. Đây là sự cầu thỉnh Bổn Tôn từ pháp giới.

    Tự quán tưởng chính con như Bổn Tôn là hư không, và Bổn Tôn có thể thấy được nhưng không có tự tánh là trí tuệ. Như vậy, đó là hư không và trí tuệ là bất khả phân.

    Chân lý tương đối là xuất hiện bất tận như là Bổn Tôn, trong khi chân lý tuyệt đối là chứng ngộ rằng tinh túy của Bổn Tôn không có tự tánh, là trống không. Do vậy, chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối là bất khả phân.

    Vị Bổn Tôn xuất hiện như phái nam là phương tiện, khi xuất hiện như phái nữ là trí tuệ. Như vậy, đó là trí tuệ và phương tiện bất khả phân.

    Vị Bổn Tôn xuất hiện trong thân tướng Bổn Tôn là phúc lạc, nó không có tự tánh là tánh Không. Như vậy, đó là cực lạc và tánh Không bất khả phân.

    Vị Bổn Tôn xuất hiện trong thân tướng Bổn Tôn là tánh giác, hình tướng xuất hiện của nó không có tự tánh là tánh không. Như vậy, đó là tánh giác và hư không bất khả phân.

    Vị Bổn Tôn xuất hiện trong thân tướng Bổn Tôn là quang minh, nó không có tự tánh là tánh Không. Như vậy, đó là quang minh và tánh Không bất khả phân.

    Hãy quán tưởng chính con như Bổn Tôn theo cách đó, thân tướng hữu hình nhưng không có tự tánh và do vậy vượt lên tuổi tác và suy hoại. Khẩu thì tụng niệm bất tận do vậy, tinh túy của mantra vượt khỏi sự ngưng dứt. Tâm siêu vượt sinh tử và như vậy là sự tương tục của pháp tánh.

    Không lìa Bổn Tôn trong bốn hoạt động hàng ngày – đi, đứng, nằm, ngồi – đó là con đường của người có khả năng tâm thức cao nhất. Điều này cực khó và là lãnh vực của người có nghiệp báo đã từng tu hành trước kia.

    NHỮNG GIAI ĐOẠN QUÁN TƯỞNG

    Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Khi thiền quán về vị Bổn Tôn Yidam, xin Ngài khai thị về cách lưu giữ Bổn Tôn trong tâm.

    Đạo Sư đáp: Trước tiên là những hướng dẫn khẩu truyền về sự quán tưởng Bổn Tôn: Dù con thiền quán Bổn Tôn ở trước mặt hay thiền quán chính con là vị Bổn Tôn, sau khi nhận được hướng dẫn khẩu truyền của vị Thầy, Ngài sẽ ban ân phước cho con, đệ tử của Ngài và bảo vệ con chống lại những thế lực gây chướng ngại.

    Kế tiếp, hãy ngồi ở nơi thích hợp, thân thể thoải mái. Đặt một bức hình Bổn Tôn thật đẹp trước mặt. Ngồi một lúc ngắn không suy nghĩ rồi nhìn vào bức hình từ đầu xuống chân. Nhìn lần nữa, toàn bộ chi tiết dần dần từ chân lên đầu. Hãy nhìn chăm chú vào bức hình như một toàn thể. Thỉnh thoảng nghỉ ngơi không suy nghĩ về bức hình và hãy tự làm tươi tỉnh. Sau đó theo cách này nhìn lại nhiều lần trong trọn ngày.

    Tối đó hãy ngủ suốt đêm. Khi thức dậy hãy nhìn như trước. Vào buổi tối đừng quán tưởng Bổn Tôn mà chỉ an nghỉ tâm con trong trạng thái vô niệm.

    Làm theo điều này, Bổn Tôn sẽ xuất hiện sống động trong tâm con dù không thiền quán. Nếu không được như vậy, hãy nhìn chăm chú vào bức hình, nhắm mắt lại và hình dung bức hình ở trước con. Ngồi cho đến khi nào hình ảnh vẫn còn tự nhiên. Khi nó trở nên mờ nhạt và không rõ, hãy nhìn lại bức hình và lâïp lại sự quán tưởng, hãy để hình ảnh hiện diện sống động. Cắt đứt suy nghĩ khái niệm và ngồi (với hình ảnh Bổn Tôn).

    Khi thiền quán như vậy con sẽ có năm loại kinh nghiệm: kinh nghiệm chuyển động, kinh nghiệm thủ đắc, kinh nghiệm thói quen, kinh nghiệm ổn định và kinh nghiệm hoàn thiện.

    1. Khi tâm con không giữ được an định, lúc đó con có nhiều tư tưởng, ý nghĩ, và hồi ức, đó là kinh nghiệm chuyển động. Qua đó, con tiến gần đến việc kiểm soát tâm. Kinh nghiệm này giống như thác nước đổ xuống vách đá.
    2. Sau đó, khi con có thể quán tưởng Bổn Tôn trong một lúc ngắn với hình dáng và màu sắc sống động và rõ ràng cùng lúc, đó là kinh nghiệm thủ đắc. Kinh nghiệm này giống như một hồ nhỏ.
    3. Tiếp sau đó, khi Bổn Tôn xuất hiện rõ ràng dù con thiền quán trong khoảng thời gian ngắn hay dài, và khi Bổn Tôn ở yên trong sáu thời công phu của con mà không có niệm tưởng thô nào xảy ra, đó là kinh nghiệm của thói quen, giống như dòng chảy của một con sông.
    4. Kế tiếp, không động niệm và con có thể duy trì thời công phu trong lúc vẫn thấy Bổn Tôn rõ ràng. Đó là kinh nghiệm ổn định giống như Núi Tu Di.
    5. Sau đó, khi con duy trì được trọn ngày hay hơn mà không mất sự hiện diện sống động của tứ chi ngay cả đến tóc trên thân Bổn Tôn và không khởi niệm, đó là kinh nghiệm hoàn thiện.

    Hành giả, hãy áp dụng điều này cho kinh nghiệm của mình!

    Nếu ngồi quán tưởng Bổn Tôn quá lâu mà không rõ ràng, thân con sẽ rối loạn. Con sẽ trở nên mệt mỏi và không thể tiến bộ trong sự thiền quán của mình. Con sẽ có nhiều niệm tưởng hơn, vậy trước tiên hãy tự làm tươi tỉnh và sau đó tiếp tục thiền định.

    Cho đến khi đạt được quán tưởng rõ ràng, đừng thiền quán vào ban đêm. Nói chung, điều quan trọng là quán tưởng trong thời gian ngắn. Thiền quán trong lúc có ánh sáng mặt trời, khi bầu trời trong sáng, hay với một ngọn đèn bơ. Không nên thiền quán khi vừa thức giấc hoặc con cảm thấy uể oải hay mệt mỏi.

    Vào ban đêm hãy ngủ thẳng giấc và thiền quán tám thời ngắn vào ngày hôm sau.
    Khi thiền định, nếu xả thiền đột ngột, con sẽ mất tập trung, vậy hãy xả thiền chậm rãi.

    Lúc thiền quán khi sự quán tưởng của con trở nên sống động, con có thể thực hành vào ban đêm, lúc hoàng hôn, và bình minh.

    Nói chung đừng làm con mệt mỏi, hãy chú tâm vào quán tưởng, lần lần quen thuộc với thiền quán ổn định, và quán tưởng đầy đủ hình tướng Bổn Tôn.

    KÉO DÀI SỰ QUÁN TƯỞNG

    Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Chúng con nên quán tưởng vị Bổn Tôn trụ trong thời gian bao lâu?

    Đạo Sư đáp: Sau khi con quán tưởng được rõ ràng và một ít ổn định như đã giải thích ở trên, có thể kéo dài thời gian an trụ. Thường thì sự tụng niệm quyết định dộ dài của thời công phu. Nhưng vì chưa tới lúc tụng niệm, sự kéo dài thời thiền nên theo khả năng an trụ trong quán tưởng của con.

    Đối với cách đo lường bên trong của thời thiền, thì khoảng cách của những hơi thở là quan trọng nhất. Tuy nhiên, với sự đo lường bên ngoài thì thời gian và số lượng thời thiền là quan trọng nhất.

    Số lượng của thời thiền có thể quyết định là giữ bốn thời trong một ngày và đêm, và kéo dài càng lâu càng tốt. Mục tiêu của việc đo lường thời thiền là không làm xáo trộn thân thể, giữ cho thực hành thăng bằng, gia tăng sự tập trung, và có thể quán tưởng trong một thời gian dài.

    Về việc tính đếm, không nên đếm miệng mà dùng chuỗi để đếm bằng tâm. Sau đó gia tăng số lượng; hãy nghỉ một lúc và thiền định một lúc.

    Về sự đo thời gian bằng bóng râm, hãy chia một ngày thành mười sáu hay tám thời (chia bóng râm theo đường vạch) và thiền định mỗi hai phần của vạch bóng râm rồi nghỉ một phần. Tóm lại, hãy thiền định trong tám thời ngắn và nghỉ ngơi xen kẽ tám thời.

    Khi con đã ổn định theo cách này, hãy thiền quán trong hai thời ngắn rồi dần dần kéo dài thêm. Sau đó con sẽ có thể trụ trong cả ngày, một ngày và một đêm, nửa tháng, một tháng, v.v...

    Tóm lại, bất kể thời thiền của con ổn định ra sao, điểm chính là đừng làm thân con mệt mỏi. Hãy giữ những thời thiền cân xứng và kéo dài một cách tự nhiên thời gian trong sáng bất động và vô niệm.

    Đây là những giáo huấn khẩu truyền về việc kéo dài sự quán tưởng Bổn Tôn.

    SỬA CHỮA NHỮNG LỖI LẦM

    Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Khi thiền quán về Bổn Tôn, chúng con nên sửa những lỗi biến đổi  ra sao?

    Đạo Sư đáp: Để sửa những lỗi biến đổi, có hai phương diện: nhận ra lỗi và sửa lỗi.

    Về nhận ra lỗi có hai loại: thông thường và đặc biệt.

    Những lỗi thông thường là quên quán tưởng, lười biếng, e ngại, hôn trầm, trạo cử (kích động), quá nỗ lực và thiếu cố gắng.

    1. Quên quán tưởng là thiền quán bị xao lãng.
    2. Lười biếng là suy nghĩ một cách giải đãi, “Tôi sẽ làm sau”.
    3. E ngại là sợ mình không thành tựu và sợ sai lạc.
    4. Hôn trầm là cảm thấy trì trệ vì hoàn cảnh, một cách ngẫu nhiên hay tự nhiên.
    5. Trạo cử là cảm thấy tự nhiên bị kích động do hoàn cảnh hay hoạt động có chủ ý.
    6. Quá nỗ lực là không bằng lòng trong lúc quán tưởng Bổn Tôn đã được rõ ràng lại phát sinh ý muốn quán tưởng thêm lần nữa.
    7. Thiếu cố gắng là vẫn dửng dưng khi sự quán tưởng Bổn Tôn không được rõ.

    Khi quán tưởng Bổn Tôn, có mười hai lỗi đặc biệt như sau: lờ mờ và không trong sáng, trên và dưới đảo lộn, thân thể không cân xứng, trang phục biến đổi, tư thế thay đổi, hình dạng biến đổi, số lượng biến đổi, màu sắc của thân biến đổi, xuất hiện chỉ có màu sắc, xuất hiện chỉ có hình dạng, ngồi nghiêng ngả và dần dần biến mất.

    Bây giờ giải thích về phương pháp sửa những lỗi này. Với bảy lỗi thông thường, con nên giữ vững tám áp dụng để sửa chữa chúng.

    Áp dụng chánh niệm khi quên quán tưởng. Áp dụng niềm tin, quyết tâm và kiên trì để đối trị lười biếng. Áp dụng chánh tư duy như phương thuốc chống lại lo sợ. Để đối trị hôn trầm, hãy phát triển nhiệt tình, đi tắm và đi dạo. Khi bị xáo động, hãy phát triển sự buồn chán đối với luân hồi, hãy cột tâm của con với sự tỉnh thức, và buộc tâm vào cây quán tưởng. Tóm lại, với hôn trầm và trạo cử, hãy sử dụng sự cảnh giác của người canh giữ. Áp dụng sự bình thản buông xả khi mong muốn nỗ lực quá nhiều. Hãy quán tưởng chuyên cần khi thiếu cố gắng.

    Về cách sửa những lỗi đặc biệt của Bổn Tôn, hãy nhìn kỹ những chi tiết khi bị lờ mờ, tối tăm hay không rõ và thực hành thiền định về tánh Không vô niệm. Hãy thực hành luân phiên giữa vô niệm, nhìn Bổn Tôn và thiền định.

    Khi sự cân đối của thân, trang phục, hình dáng, hay tư thế biến đổi, hãy quán tưởng rằng thân Bổn Tôn là vật chất cụ thể và rất to lớn, vững chắc. Quán tưởng rằng những con bồ câu bay vào và ra lỗ mũi, những con chim, cừu và nai nô đùa trên tay và chân. Quán tưởng rằng vị Bổn Tôn an trụ như chất liệu cứng chắc giống một bức tượng.

    Nếu biến đổi số lượng, hãy hạn chế quán tưởng một hay hai Bổn Tôn. Khi chỉ xuất hiện màu sắc, hãy quán tưởng hình dáng. Nếu Bổn Tôn đổi màu đỏ hay vàng theo sức nóng của thể trạng máu hay mật v..v... hãy nghỉ ngơi. Nếu Bổn Tôn dần dần biến mất, hãy tập trung tâm vào tay và mặt Bổn Tôn. Với lỗi quán tưởng không trọn vẹn, hãy quán tưởng toàn bộ thân thể Bổn Tôn với đầy đủ trang hoàng và những thuộc tính.

    Tóm lại, hãy thực hành mà không trở nên mệt mỏi vì bất kỳ những lỗi nào có thể xảy ra. Sau đó, thiền định về tánh Không vô niệm. Kế tiếp thực hành trong lúc nhìn và chú tâm vào thân thể vị Bổn Tôn.

    Đây là những giáo huấn khẩu truyền về sửa chữa lỗi lầm khi thiền quán về Bổn Tôn.

    TU HÀNH VỚI BỔN TÔN

    Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Chúng con nên rèn luyện với Bổn Tôn  như thế nào?

    Đạo Sư khai thị: Giáo huấn khẩu truyền về tu hành với Bổn Tôn là quán tưởng Bổn Tôn bằng thiền định về vô niệm cho đến khi con thoát khỏi những lỗi này. Hãy thiền định luân phiên giữa Bổn Tôn và vô niệm. Khi con có thể quán tưởng Bổn Tôn không bị lỗi, hãy quán tưởng Bổn Tôn đứng thẳng, hay ngồi, nằm ngửa hoặc sấp trên một bình nguyên hay đỉnh núi, gần hay xa, trên đá hay dưới nước. Hãy tu hành việc quán tưởng Bổn Tôn theo những cách này bất cứ khi nào con muốn thực hành.

    HÒA NHẬP VỚI BỔN TÔN

    Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Chúng con nên hòa nhập với Bổn Tôn ra sao?

    Vị Thầy khai thị: Một khi con đã tu hành và quen thuộc với Bổn Tôn, hãy hóa tán Ngài vào trong con. Hãy quán tưởng điều đó khi con là một Bổn Tôn đơn hay một mandala với một cõi Phật. Sau đó, để nối kết Bổn Tôn với cái tối hậu, Bổn Tôn được quán tưởng và được ổn định nhờ niệm tưởng của con. Tâm con và tám thức kết tập là cái xuất hiện như thân tướng và trí tuệ của Bổn Tôn. Một cách tuyệt đối, nó là tỉnh giác của tâm giác ngộ, trí tuệ vĩ đại tự-hiện hữu, tinh túy của quả. Vị Bổn Tôn không xuất hiện từ đâu khác. Cho dù Ngài xuất hiện ra sao đêàu vô tự tánh và do vậy là một thân tướng bất nhị. Xuất hiện trong thân tướng Bổn Tôn là vượt khỏi bám luyến vì Ngài là thân, khẩu, ý như kim cương (thân vajra) xuất hiện nhưng vô tự tánh.

    Dù tâm con xuất hiện như Bổn Tôn, nó cũng không có tự tánh. Vì nó không thể khảo sát hay biểu thị bằng bất cứ hình tướng gì, nó là pháp thân.

    Hỡi hành giả, con đã tu hành như vậy theo ý nghĩa này,cần tuân thủ và an trú trong sáu samaya của thực hành. Con không nên từ bỏ sự sùng kính vị Thầy, người đã ban cho con giáo lý khẩu truyền. Áp dụng những gì có lợi cho thiền định và tránh những gì không lợi. Đừng để sự tập trung của con bị lãng phí vì những hoạt động hàng ngày. Tiếp tục cho đến khi hoàn thiện mà không từ bỏ Bổn Tôn, hãy giữ bí mật việc thực hành Bổn Tôn riêng của con và không thiền định với suy nghĩ bỏ vị này lấy vị khác. Bất kỳ vị Bổn Tôn nào con thực hành đều tương tự như thiền quán về tất cả chư Phật. Việc thiền quán về chư Phật không gì khác hơn là giúp nhận ra tâm con. Thậm chí việc quán tưởng Bổn Tôn cũng chỉ là một biểu hiện của tâm thức. Ngoài điều này ra thì không có gì để thành tựu và thiền định. Chư Phật và Bồ Tát đều hiện thân trong vị Bổn Tôn Yidam của con.

    Đây là hướng dẫn khẩu truyền về hòa nhập với Bổn Tôn và nối kết Ngài với tuyệt đối.

    LÀM THẾ NÀO ĐỂ THÀNH TỰU BỔN TÔN

    Công Chúa Tsogyal hỏi vị Thầy Hóa Thân: Thưa, người ta lấy một  vị Bổn Tôn như con đường và thành tựu Ngài ra sao?

    Vị Thầy đáp: Để thành tựu một Bổn Tôn, trước tiên hãy quán tưởng vị Bổn Tôn phía trước con. Sau đó ổn định sự quán tưởng vế chính con như Bổn Tôn. Cho đến lúc này tránh tụng niệm.

    Bây giờ, khi sắp thực hành Bổn Tôn, hãy sắp xếp một mandala cho sự thành tựu và bày đồ cúng dường. Hãy đặt những đối tượng thiêng liêng trước mặt và tự làm tươi tỉnh, ngồi xuống trên một chỗ thoải mái.

    Cầu thỉnh vị Thầy và tập hội chư Bổn Tôn Yidam, đảnh lễ, cúng dường và tán thán, thực hiện tám chi. Vị Bổn Tôn sau đó tan thành ánh sáng và hóa tán vào trong con, bằng cách này hãy quán tưởng chính con là vị Bổn Tôn Yidam. Hãy vẽ một vòng bảo vệ để nhập thất và thánh hóa sự cúng dường.

    Nhờ ba samadhi v.v.., hãy quán tưởng mandala cùng với những Bổn Tôn. Thực hiện sự hiến cúng thánh hóa và quán đảnh. Cầu thỉnh và hòa nhập Bổn Tôn trí tuệ, đảnh lễ, cúng dường và tán thán.

    Lập lại sự quán tưởng Bổn Tôn tách biệt phía trước con, và tụng niệm. Khi hoàn tất tụng niệm hãy tán thán.

    Thể nhập Bổn Tôn vào thân con và đi ngủ trong lúc duy trì niềm tự hào con là Bổn Tôn.

    Sáng hôm sau khi thức dậy lập tức quán tưởng Bổn Tôn và tụng niệm theo nghi quỹ của con như trên.

    Hãy thánh hóa thực phẩm và đồ uống và cúng dường như một bữa tiệc.

    Theo cách này dù con tu hành với Bổn Tôn như một tập hội Bổn Tôn trong mandala đơn, con vẫn sẽ  thành tựu.

    Đây là giáo huấn khẩu truyền của sự thành tựu Bổn Tôn.

    NHỮNG DẤU HIỆU THÀNH TỰU

    Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Khi thành tựu một Bổn Tôn, những dấu hiệu và biểu lộ gì của sự thành tựu sẽ xuất hiện?

    Vị Thầy khai thị: Có bốn loại dấu hiệu: biểu hiện, những giấc mơ báo hiệu, những chỉ dẫn, và những dấu hiệu trong thực tế.

    Bốn loại biểu hiện giống như khói, ảo ảnh, đom đóm, và một bầu trời không mây. Những biểu hiện này được giải thích như những ví dụ cho sự tiến bộ của kinh nghiệm.

    Năm loại giấc mơ báo hiệu như sau: thấy chư Phật và Bồ Tát khác với mình, thấy chư Phật và Bồ Tát và mình như nhau, thấy chính mình là Bổn Tôn không có trước sau, thấy tất cả chư Phật và Bồ Tát bày tỏ sự tôn kính và cúng dường cho mình và mộng thấy rằng tất cả chư Phật truyền đạt và giải nghĩa những giáo lý sâu xa.

    Ngoài ra, nếu nằm mơ thấy mình nhiều lần khỏa thân là dấu hiệu đã tịnh hóa những tập khí. Mơ đi lên cầu thang vào bầu trời là dấu hiệu đã đi vào con đường. Mơ thấy cưỡi sư tử và voi là dấu hiệu đã hoàn thành các địa (quả vị Bồ Tát). Mơ thấy có vị xuất hiện tươi cười v.v... là dấu hiệu nhận được một tiên tri.

    Dù con có những hảo mộng như vậy, cũng đừng vui mừng.

    Đây là những chỉ dẫn bên ngoài, bên trong và bí mật của thực hành.

    1. Những chỉ dẫn bên ngoài trong khi thiền định là: thấy những đối tượng vật chất như phân tử vi tế, những chủng tử tự, những thuộc tính của tâm, thân tướng vi tế, v..v..., hoặc thấy những lãnh vực tri giác thô của năm màu như lửa và nước, v..v...
    2. Những chỉ dẫn bên trong là khi thiền định về Bổn Tôn con không để ý đến hơi thở ra vào, thân con nhẹ như bông gòn và thoát khỏi già chếtø.
    3. Những chỉ dẫn bí mật là khi con thực hành Bổn Tôn một xuất hiện huyễn ảo, thì như chỉ là trí tuệ hiện tiền tự nhiên. Con cảm thấy lòng bi bình đẳng với mọi người và lãnh vực kinh nghiệm của con hé lộ như trí tuệ.

    Những dấu hiệu thực tế là những dấu hiệu bên ngoài và trong. Những dấu hiệu bên ngoài là ánh sáng xuất hiện, hình của Bổn Tôn cười, một âm thanh lớn hay mùi hương thơm dịu xuất hiện, một đèn bơ tự thắp sáng, thấy đầu con bay lên, hoặc thấy thân con không có bất kỳ khó chịu nào. Những dấu hiệu bên trong cho thấy lòng bi của con tăng trưởng hơn trước, bám luyến của con giảm bớt, thoát khỏi định kiến, con có samaya thanh tịnh và tình thương với vị Thầy và Pháp hữu, con không còn sợ luân hồi và không bị Mara (Ma vương) đe dọa.

    Khi những dấu hiệu như vậy xảy ra, đừng trở nên vui mừng mà hãy tinh tấn.
    Đây là cách ù những dấu hiệu và chỉ dẫn của thực hành xuất hiện.

    NHỮNG KẾT QUẢ CỦA THỰC HÀNH

    Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Những phẩm tính nào sẽ là kết quả của việc thực hành Bổn Tôn?
    Đạo Sư nói: Những phẩm tính kết quả từ thực hành Bổn Tôn là con tịnh hóa những che chướng và tích lũy công đức.
    Vì sự ý niệm hóa của con chấm dứt nhờ thiền quán một Bổn Tôn, con sẽ tịnh hóa những che chướng của nghiệp, những cảm xúc phiền não, và những nơi tái sanh.
    Về phần tích lũy công đức, có năm loại kết quả: kết quả của con đường, đó là bốn cấp vidyadhara, và kết quả tối hậu.
    Những cấp vidyadhara có hai phương diện: phẩm tính và tinh túy. Các phẩm tính là lục thông và bốn thần lực. Tinh túy là bốn cấp vidyadhara, đó là vidyadhara cấp trưởng thành, vidyadhara cấp làm chủ cuộc sống, vidyadhara cấp đại ấn, và cấp vidyadhara của hiện diện tự nhiên.
    Kết quả tối hậu là khi sự thiền quán Bổn Tôn của con trở nên linh hoạt, ngay cả dù con có một ít phẩm tính và chút thông minh, chắc chắn con sẽ đạt được trạng thái Phật quả viên mãn.

    NĂM CON ĐƯỜNG

    Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Trong hệ thống Bát Nhã Ba La Mật đã dạy rằng hành giả phải đi qua các con đường. Chúng con phải làm sao để phối hợp năm con đường với thực hành mandala Bổn Tôn tới viên mãn?
    Vị Thầy đáp: Con đường thực hành mandala Bổn Tôn có bốn phương diện: con đường tiếp hợp, con đường của cái thấy, con đường trau dồi (trưởng dưỡng), và con đường hoàn tất.
    Những con đường tiệm tiến này có thể nối kết với bốn phương diện của tiếp cận và thành tựu, trong đó sự tiếp cận là con đường của tiếp hợp, tiếp cận hoàn toàn là con đường của cái thấy (kiến giải), sự thành tựu là con đường trưởng dưỡng, và đại thành tựu là con đường hoàn tất.

    CON ĐƯỜNG TIẾP HỢP

    Con đường tiếp hợp có bốn khía cạnh. Thực hành chân như và những samadhi như huyễn là sức nóng (nỗn địa). Thực hành tập trung vi tế và tướng Bổn Tôn đơn là đỉnh cao nhất (đảnh địa). Thực hành sự biểu hiện trọn vẹn và thân tướng Bổn Tôn chi tiết là sự tiếp nhận (nhẫn địa). Thực hành về tập hội trên con đường liên tục là thế gian tối cao (thế đệ nhất địa).

    1.  Bằng đại định của chân như, hãy xác định rằng mọi hiện tượng đều là tâm con và thực hành vô niệm trong bản tánh không tạo tác của tâm. Hãy thực hành cho đến lúc con nhận ra nó.

    Đại định như huyễn là sự tự-phô diễn của hư không bất sinh. Đó là thực hành sự nhận thức tính bất khả phân có biết nhưng vô niệm của sự biểu lộ hình tướng và tánh Không. Giống như ánh sáng tràn ngập hư không được nhận biết, trong lúc sự nhận biết là biểu hiện và phi khái niệm.

    Lúc đã thực hiện được điều này sau khi đạt được sự linh hoạt, con sẽ vượt qua ranh giới giữa những sự giống nhau của Đại Thừa và Tiểu Thừa, sau đó mười một dấu hiệu đạt được sức nóng sẽ xuất hiện:

     Những côn trùng không sống trên thân con.
     Những nhiễm ô bên ngoài và bên trong của con được tịnh hóa.
     Thoát khỏi bệnh tật của thân tứ đại.
     Đạt được cái nhẫn thuộc về thể lý.
     Vượt qua những suy nghĩ dựa trên khái niệm của con.
     Thoát khỏi thực phẩm vật chất, sự tươi sáng rực rỡ huy hoàng của con vượt lên sự tàn tạ.
     Không phát sinh những tham nuốn thông thường.
     Thoát khỏi năm cảm xúc phiền não.
     Tập khí có khuynh hướng thiên về kiến và hành của Tiểu thừa được cạn kiệt.
     Thoát khỏi tám mối quan tâm thế gian.
     Nhận được Giáo Pháp thâm sâu.

    Đây là mười một dấu hiệu đạt được sự chấp nhận vượt khỏi sự bị rơi trở lại.

    2.  Thực hành Bổn Tôn đơn và tập trung vi tế ở giai đoạn đỉnh là thiền định về samadhi vi tế và Bổn Tôn đơn cho đến khi nó trở thành biểu lộ trong ba lãnh vực của đối tượng.

    Những dấu hiệu của tập trung của giai đoạn đỉnh là năm cảm xúc phiền não không khởi lên theo những đối tượng bên ngoài, và không thể bị hại bởi năm nguyên tố bên ngoài. Đó là những dấu hiệu tâm con đã hòa nhập với hình tướng xuất hiện.

    4. Thực hành yoga của tướng thân phức tạp ở giai đoạn nhẫn là tự tu hành với Bổn Tôn phẫn nộ và hiền minh như ba gia đình, năm gia đình hay một số nhóm gia đình.

    Con đạt được hoàn thiện điều này khi đã phát triển quen thuộc với nó, con có thể phát ra ánh sáng với một samadhi tức thời và tỉnh giác tự nhiên của con có thể quán tưởng thậm chí một mandala của một ngàn vị Phật.

    Những dấu hiệu chứng tỏ đạt được giai đoạn nhẫn và trở nên linh hoạt trong việc biểu hiện những hình tướng là con có thể biến cát thành vàng, tạo ra nước ở nơi khô hạn, làm than củi đâm chồi, và có thể điều khiển mọi vật hữu hình theo con muốn. Đó là những dấu hiệu đạt được sự làm chủ tâm.

    4.  Hoàn tất tập hội trên con đường liên tục ở giai đoạn cao nhất của thế gian là thực hành ý nghĩa đại lạc của pháp tánh. Khi trở nên cực kỳ ổn định, con được phú cho năm điều,  v.v.., và con bắt đầu nghi quỹ vào một lúc cát tường.

    Nếu năng lực tập trung mạnh, con đạt được cấp vidyadhara làm chủ cuộc sống, do vậy; trong vòng sáu, mười hai hay mười sáu tháng con sẽ đạt tới bộ thiêng liêng của sự làm chủ. Năng lực sống của con sẽ tương đương mặt trời và mặt trăng và có thể kéo dài tuổi thọ của con mỗi lần một trăm năm.

    Nếu năng lực tập trung yếu, con đạt được cấp vidyadhara trưởng thành. Khi rời bỏ thân xác, con đạt được thân tướng dầy đủ của bổn tôn yidam trong trung ấm. Đó là kết quả của sự ổn định trong giai đoạn phát triển.

    CON ĐƯỜNG CỦA CÁI THẤY.

    Bây giờ Ta sẽ giải thích sự tiếp cận đầy đủ đó là con đường của cái thấy. Sau khi nhận biết thân còn lại của con là một thân tâm thức, những nhiễm ô sẽ cạn kiệt và con đạt được sự bất biến của vidyadhara cấp làm chủ cuộc sống vượt khỏi sinh tử, thậm chí không cần rời bỏ thân xác hiện tại. Đạt được ngũ thông và bốn thần lực, con chứng ngộ những đặc tính của cái tối hậu. Mặc dù chuyển hóa thành vô số vật qua vô số kiếp không thể tính toán được, phô diễn những thần lực huyền diệu của con trên con đường của cái thấy và hoạt động vì lợi ích của chúng sanh, con đi vào hành động mà không bám luyến và nhận được giáo lý từ những vị hóa thân trong thân người. Con sẽ không rơi trở lại khỏi con đường.

    CON ĐƯỜNG CỦA SỰ TRƯỞNG DƯỠNG VÀ HOÀN TẤT.

    Bây giờ Ta sẽ giải thích sự thành tựu như là con đường trưởng dưỡng. Con đường của sự trường dưỡng là đặt những đặc tính của cái tối hậu vào thực hành, đạt được cấp mahamudra của thân cầu vồng.

    Dù trạng thái tâm của con trong trạng thái thiền định không khác với trạng thái tâm của các vị Phật nhưng vì con vẫn còn trạng thái của thức hậu thiền định do vậy phải chủ ý trụ lại trong thiền định. Vì giờ đây con an trụ trong tập trung không lay động, đó là cấp vidyadhara của mahamudra. Đây là kinh nghiệm bất động từ ati yoga. Không rời trạng thái thiền định con lưu xuất vô số xuất hiện như huyễn và hoàn thành lợi ích cho chúng sanh. Bằng tâm thức hay bằng biểu tượng, con có thể tiếp nhận giáo lý từ báo thân.

    Về con đường của đại thành tựu, cấp vidyadhara của hiện diện tự nhiên, những phẩm tính của con hầu hết đều ngang bằng với những phẩm tính tối thượng của chư Phật, nhưng vẫn còn có khác biệt giữa trạng thái không có thiền định hay có thiền định khiến nâng cấp những phẩm tính đó. Cấp vidyadhara hiện diện tự nhiên sở hữu sự nâng cao tức khắc.

    Tập hợp những vị nhiếp chính và ban giáo lý, con đạt được sự  hoàn tất, đại định như-kim cương và thành tựu lợi ích cho mình và người khác nhờ thần lực không cần cố gắng. Đây là hành động biểu lộ của trí tuệ. Hội ngộ pháp thân mặt đối mặt, con tiếp nhận giáo lý qua những ban phước và tịnh hóa những che chướng vi tế của tri kiến nhị nguyên.

    Đây là con đường tiệm tiến về việc làm thế nào đạt được bốn phương diện tiếp cận và thành tựu, năm con đường, và bốn cấp vidyadhara.

    SỰ NHẢY QUA CÁC CẤP BẬC

    Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Khi giải thích con đường tắt của Kim Cương Thừa, liệu có thể nhảy qua các cấp bậc trên con đường hay không?

    Vị Thầy đáp: Cũng có dạy rằng có sự nhảy qua những cấp bậc. Có thể có một số người đạt tới thành tựu, tiến bộ qua con đường tiếp hợp, con đường của cái thấy, và con đường trưởng dưỡng một cách tức thời. Không đi từng bước, một số người đạt giác ngộ từ con đường của cái thấy, một số đạt Phật quả từ con đường trưởng dưỡng, có người tiệm tiến dần đến cuối đường và đạt tới trạng thái Phật quả. Người ta khác nhau theo mức độ năng lực thông minh và tập trung.

    Bốn cách thực hành con đường này tùy theo đẳng cấp của bốn loại người thì không dựa vào việc phải tiếp tục theo con đường sau khi tái sanh ở kiếp tới. Hệ thống quả của Kim Cương Thừa chủ trương rằng con thoát khỏi căn bệnh sinh tử ngay trong kiếp sống này, và đạt được cấp samadhi vượt khỏi tái sanh, con thành tựu ba thân.

    Để đạt tới địa Bất khả phân và đắc Pháp thân chỉ trong một kiếp, người thông tuệ được dạy tu hành trong con đường của pháp thân, quen thuộc dần với nó, và lấy như thị làm con đường.

    Để đạt Thiện Thệ địa và đắc thân đại lạc, người nhiệt thành được dạy tu hành trong con đường đại lạc, quen thuộc dần với nó, và lấy lạc làm con đường.

    Để đạt địa Vòng Đại Tập hội và đắc những thân sắc tướng, người nhiều sân được dạy tu hành trong con đường giải thoát và quen thuộc dần với nó. Người chấp giữ những thuộc tính được dạy để nhận Bổn Tôn làm con đường.

    Trong cách này, con tịnh hóa các cõi của ba thân và quen thuộc dần với ba địa. Vì tất cả những kết quả này đều dung chứa trong tâm con nên hãy xác quyết rằng Phật quả không hiện hữu ở đâu khác.

    Đây là những phẩm tính siêu phàm của con đường nhảy vượt qua những cấp bậc.

    NHỮNG THÂN VÀ NHỮNG TRÍ TUỆ

    Công Chúa Tsogyal hỏi Đạo Sư: Thưa, chúng con đạt quả vị của Kim Cương Thừa, năm thân, và ngũ trí ra sao?

    Vị Thầy khai thị: Liên quan đến những loại khả năng khác nhau vừa nhắc đến ở trên, khi con tiến hành bốn cách nhận làm con đường, con đạt được quả vô thượng, kết quả hiện diện tự nhiên của năm thân và ngũ trí.

    Pháp giới thể tánh trí nghĩa là tướng chung của tất cả chư Phật, tánh vốn có sẵn không tạo tác của con, một tinh túy nguyên sơ vô điều kiện, là bất sinh, vốn thanh tịnh vượt khỏi sinh diệt.

    Trí tuệ như gương nghĩa là dù pháp giới không có vật chất cụ thể, bản tính của nó là trong sáng và mọi hiện tượng xuất hiện giống như những phản chiếu trong một tấm gương trong lúc đó không có tự tánh, và được nhận biết trong lúc không có suy nghĩ dựa trên khái niệm.

    Bình đẳng tánh trí nghĩa là pháp giới bất tận là tánh giác tự hiện hữu, và lìa khỏi mọi tạo tác. Sự nhận thức là vô sinh, bất nhị, và đại bình đẳng.

    Diệu quan sát trí (trí tuệ phân biệt cá thể) là sự kiện không rời trạng thái bình đẳng bất nhị này, những đặc tính của hiện tượng chung và riêng là không lẫn lộn và hoàn toàn đầy đủ, trong lúc những tập khí của vô minh được loại bỏû và trí tuệ toàn giác hiện ra không có khổ đau của sự suy nghĩ dựa trên khái niệm.

    Đại viên cảnh trí (trí tuệ của hành động kiên trì)[34]  là ngơi nghỉ trong lúc vẫn nhận biết như vừa nhắc đến. Trí tuệ bất khả phân này là để thành tựu và hoàn thiện lợi ích cho chính mình và người khác một cách tự nhiên với sự kiên trì.

    Năm trí này biểu lộ riêng rẽ như sự biểu hiện bất tận của giác tánh con, nhưng chúng không bao giờ tách rời trí tuệ nền tảng của pháp giới. Pháp giới thể tánh trí này là nền tảng của tất cả, là sự hiện diện nguyên sơ trong chính con; suốt ba thời, hành giả chưa từng tách khỏi nó.

    Bây giờ cách năm thân hiện diện ra sao như sau.

    Pháp thân là bản tánh bẩm sinh không do tạo tác, một sự tự nhiên thâm sâu, vượt khỏi sinh diệt và tạo tác.

    Báo thân là sự hỷ lạc của trí tuệ tự-hiện hữu của tánh giác, vì thân và trí tuệ đều hiện diện trong sự tương tục của bản tánh bẩm sinh của tâm con.

    Hóa thân là lòng bi sinh ra từ trí tuệ, xuất hiện và phô diễn như huyễn trong tất cả cách.

    Thân đại lạc là đại lạc bất sinh của tâm giác ngộ.

    Thân tinh túy là sự kiện bốn thân này không tách rời như tinh túy của tâm giác ngộ bẩm sinh.

    Vì năm thân và năm trí hiện diện tự nhiên, điều này được gọi là sở hữu tổng tướng của tất cả chư Phật. Hành giả thiền định tiệm tiến về tinh túy của năm thân này khi ở trên con đường như bản tánh của tâm mình. Khi rời bỏ thân xác, hành giả đạt được năm thân và năm trí này theo một cách siêu vượt chứng đắc và thấy biết chúng theo một cách siêu vượt thấy biết.

    Đây là sự giải thích Phật tánh hoạt động vì lợi ích của chúng sanh ra sao. Rất nhiều sự phản chiếu của mặt trời trên mặt nước mà không để lại dấu vết một vòng mặt trời nào cả. Tương tự, Chân lý và Đấng Giác Ngộ viên mãn, Pháp thân, không lưu lại sự bình đẳng của bản thể bẩm sinh, những xuất hiện huyền diệu qua báo thân và hóa thân tùy theo những khuynh hướng riêng biệt của người cần điều phục nhiều như không gian vô tận. Dù hoạt động vì lợi ích của chúng sanh, pháp thân không có sự suy nghĩ dựa trên khái niệm (vô niệm).

    Ví dụ, ánh sáng mặt trời không quan niệm làm lợi ích chúng sanh. tương tự, hai thân không có quan niệmhành động cho lợi ích của chúng sanh. Sự lợi ích của chúng sanh do năng lực ý nguyện của họ.

    Đạo sư khai thị: Này Tsogyal, khi chu trình năm trăm năm của thời đại đen tối xảy đến, đa số người đi theo Kim Cương Thừa sẽ chỉ nói mà không thực hành ý nghĩa của chúng. Họ sẽ để Kim Cương Thừa đi lạc vào sự tụng niệm thần chú của phù thủy và sẽ sử dụng sai những chất liệu samaya cho những nghi lễ trống rỗng. Họ sẽ xây dựng nơi ẩn cư ở giữa làng. Tuyên bố là thực hành hợp nhất họ sẽ tự cho phép hưởng thụ những tham dục thường tình. Tuyên bố là thực hành giải thoát họ sẽ dung túng cho sân hận thường tình. Nhầm lẫn giữa thiện và ác, họ đổi chác những giáo huấn khẩu truyền và thậm chí những vị Thầy cũng bán mình cho đệ tử. Họ sẽ biến Kim Cương Thừa thành sự nghiên cứu và sẽ thực hành với động cơ chính trị và tham vọng ích kỷ.

    Trong thời kỳ mạt pháp này, Kim Cương Thừa sẽ bị che ám bởi ngôn từ. Ân phước của Kim Cương Thừa sẽ giảm bớt vì thiếu hiểu biết ý nghĩa của nó. Vì chỉ có số ít đạt tất địa, sẽ đến lúc Kim Cương Thừa gần như biến mất. Vì lợi ích của những người có thiện nghiệp đã được định trước vào lúc đó, hãy viết ra dòng truyền nhờ sự nghe này và cất dấu nó như một kho tàng.

    Trong Động Phi Cao tại Yerpa, vào ngày 12 tháng cuối thu Năm Thân. Ta, Công Chúa Tsogyal viết ra tràng hoa hướng dẫn khẩu truyền quý báu này, Sự Tu Tâm của Kim Cương Thừa, và cất giấu nó như một kho tàng. Sau khi gặp được một người đã định có thiện nghiệp trước, cầu mong những lời tịnh hóa những che chướng này đến trí tuệ của yï, và cầu mong y đạt được cấp độ vidyadhara.

    Dấu ấn kho tàng.
    Dấu ấn cất dấu.
    Dấu ấn sự uyên thâm.
    Dấu ấn giao phó.

    SOURCE: TP
    Read more »
RSS