Niệm Phật Đường
Welcome
Login / Register

Tantric scriptures - Mật Giáo


  • Thực Tập Thiền Định Lợi Ích Gì?. Sự Nguy Hiểm Như Thế Nào?

    THIỀN ĐỊNH

    Cuộc sống quá nhiều phiền nảo, vào thời đại này, thường khi gà gáy thức dạy đã lo suy nghĩ hôm nay phải làm gì?. Nói chung suốt ngày chỉ chạy quanh trong vòng lẫn quẫn Tiền, Danh Vọng, Ái Dục...Thật đáng tiếc một kiếp sống có được thân người hoàn hảo. Tại sao hành giả không tìm một con đường tốt đẹp hơn cái vòng lẫn quẫn ở trên, biết đâu khám phá được sự AN LẠC HIỆN TẠI và VỊ LAI.

    Thiền định cũng là phương pháp đưa đến con đường CHÂN THIỆN MỸ. Tại sao chúng ta không thử TÌM HIỂU qua nhiều phương tiện đễ THỰC HÀNH cho đời sống tốt đẹp hơn và trí tuệ phát triển đến chổ thâm sâu...

    Nói về cách thực hành thiền định từ xưa đến nay có rất nhiều phương cách trong cỏi giới hữu vi cũng như vô vi, tuy nhiên con đường đưa đến sư AN LẠC chỉ có một phương pháp đó là NHƯ LAI THIỀN ( Giới-Định-Huệ). Ngoài con đường này tất cả sự thực hành sẽ LẠC VÀO MA ĐẠO, hành giả trước khi dấn thân vào con đường thực tập nên tìm một vị THẦY có đầy đủ Đại Bi Tâm, vị thầy ấy thường có đức tính NHẪN NHỤC, KHOAN DUNG, TRÍ TUỆ thông suốt hữu vi và vô vi...Thường có thể là một cao tăng hay tiểu tăng hay là Bồ Tát hóa thân đi giữa cuộc đời giống như chúng ta. Hành giả phải khéo léo phát Đai Bi Tâm làm lợi ích chúng sanh, chắc chắn sẽ gặp...Thời Mạt Pháp rất khó gặp những vị THẦY có đầy đủ phương tiện giúp hành giả đạt đến CHƠN PHÁP. Trong lúc chờ đợi mỗi mỗi hành giả nên lợi dụng thời gian và không gian có được thân GIẢ HỢP thực hành theo phương pháp đơn sơ dưới đây.

    1-Luôn ý thức KHÔNG SÁT SANH (12 loài)
    2-Phát Đại Bi Tâm Gặp một vị thầy
    3-Học Kinh Viên Giác, để hiểu thế nào là Hữu vi Tâm và CHƠN TÂM
    4-Cố gắng ĂN CHAY càng nhiều càng tốt, bớt THỊT CÁ lại trong mỗi buổi ăn
    5-Mỗi ngày phải dành 3 tiếng ngồi THIỀN
    6-Học 1 trong 12 Bộ Kinh Đại Thừa, Tùy TÂM hành giả ưa thích
    7-Nguyện khi Đạt đến CHƠN TÂM sẽ PHỔ ĐỘ VÔ LƯỢNG CHÚNG SANH. Muốn thông suốt điều này phải thực hành Bố Thí qua THÂN KHẨU Ý.

    Trong 7 điều này hành giả luôn luôn thực hành mỗi ngày, cho dù có nhiều vấn đề phải làm trong ngày, nhưng phải cố gắng...và ý thức nếu không lợi dụng thân này thực tập CHƠN PHÁP, chắc chắn hiện tại và vi lai tùy nhân duyên THIỆN ÁC sẽ có thân mới trong 3 còi KHỔ VÔ CÙNG...

    Điều quan trọng trên bước đường thực hành pháp, hành giả luôn luôn phát Đai Bi Tâm mong muốn gặp một vị THẦY ngay trong kiếp làm người. Vị Thầy rất quan trọng hướng dẫn sự thực tập từ khi bắt đầu hành giả dấn thân tìm sự AN LẠC, cho nên đừng bỏ qua cửa ải này.

    Mỗi một hành giả tùy theo Hạt Giống Bồ Đề gieo tròng nhiều kiếp quá khứ và hiện tại, nhân duyên hội đủ sẽ tùy phương tiện thực hành pháp, ví dụ con đường thực hành gồm có HIỂN hay MẬT THỪA, cả hai con đường đều dưa đến kết quả HẠNH PHÚC AN LẠC ngay trong kiếp sống hiện tại và vị lai, xa hơn nữa hành giả trở về với mái nhà xưa. ( CHƠN TÂM THƯỜNG TRÚ...hay Phật Tánh đã có sẳn v.v...).

    1- Nói về HIỂN, sự thực hành được đặc trên NỀN TẢNG gieo NHÂN THIỆN trải qua nhiều số kiếp khi thuần tục thì CHƠN TÂM THƯỜNG TRÚ mới hiển lộ...Thường thì hành giả có thể thấy qua cuộc sống thế gian những vị xuất gia theo con đường TIỂU THỪA, THANH VĂN THỪA hay BỒ TÁT THỪA...Phương pháp chuyển hóa THÂN TÂM phải theo thứ tự, mới có kết quả thành tựu.

    2-Con đường MẤT THỪA, dựa trên NỀN TẢNG là mỗi mỗi một hành giả đã có sẳn CHƠN TÂM THƯỜNG TRÚ ( Tâm Phật v.v...)...Sở dỉ không nhận diện đươc một cách CHƠN NHƯ PHÁP GIỚI. Bởi vì sự huân tập, hữu vi tâm NHÌN SAI LAC hay nói một cách MẮT MÙ, nhưng tường rằng, tất cả thế gian, cũng như cảnh giới VÔ VI là THẬT...Thật ra trong 3 cỏi đều là HƯ VỌNG, không thật. Cho nên tất cả hành giả dấn thân vào con đường KIM CANG THỪA phải thay đổi lối nhìn, nghe, ngữi, nếm v.v....ĐỀU LÀ PHÁP HỮU VI, xa hơn nữa thực hành thiền đình trong cảnh giới VÔ VI cho dù có THẤY hay NGHE hoặc bất kỳ hiện tượng nào cũng phải BUÔNG XÃ 100%, vì tất cả đều nằm trong SANH DIỆT, DIỆT rồi SANH hay nói RÕ hơn là hiện tượng KẸT TRONG Có, Không, Cũng có, Cũng không...Nếu hành giả thực hành BÁM VÍU 1 trong 4 hiện tượng SANH DIỆT lâu ngày AN TRỤ TRONG CẢNH GIỚI MA ĐẠO, điều này rất quan trọng khi thực hành..
    Hành giả thực hành theo con đường MẬT, phải tìm cho ra một vị THẦY, vị Thầy có khả năng thông suốt TÁNH KHÔNG của VẠN PHÁP hay nói cách ngắn gọn là VIÊN THÔNG TỨ ĐẠI sẽ giúp TÂM TRUYỀN TÂM thì hành giả thực hành mới có KẾT QUẢ, bằng không TAI HẠI VÔ CÙNG....Thà rằng di chậm hoặc sống cuộc sống HIỀN LÀNH thuận theo 3 cỏi ( THIỆN) thì tốt hơn...Nếu thực hành SAI sẽ KHỔ trong kiếp sống hiện tại và vị lai sẻ KHÔNG CÓ 1 giây HẠNH PHÚC...Cẩn thận điều này.

    Nếu Hành Giả có duyên lành thực hành theo con đường MẬT, một đời có thể tìm lại NIỀM AN LẠC CHON NHƯ THƯỜNG TRÚ...Chậm là 16 đời vị lai sẽ TRỞ về NHÀ...

    Thật ra Chơn Như Thường Trú hành giả không ở đâu xa vời. Không nằm trong, không ở giữa, không bên ngoài, không trên, không dưới v.v...Hành giả y như Pháp thực hành mỗi ngày con đường sẽ đưa đến sự ngạc nhiên khám phá kỳ diệu Bản Lai Diện Mục đã có sẳn mà nhiều kiếp sống đã không hay biết ....

    Con đường dấn thân về nhà, có rất nhiều rất rối hay nói cách khác Đệ Nhứt Phiền Nảo phát sanh 24/24, phải lưu ý điểm này. Có nhiều phương pháp đối trị như, TRÌ CHÚ, LÀM VIỆC THIỆN ( Lục Độ Ba La Mật v.v..) hoặc luôn luôn GIỮ ĐẠI NGUYỆN...từ từ sẽ thông qua chướng ngại. Điều quan trọng là phải Ý THỨC BUÔNG XÃ HỮU VI và VÔ VI, lý do đơn giản hành giả chưa thấy lại CHƠN NHƯ THƯỜNG TRÚ cho nên dù có những hiện tượng AN LẠC, HẠNH PHÚC hay PHIỀN NẢO phải hiểu tất cả PHÁP Hữu và Vô đều MỘNG HUYỄN. Thực tập lâu ngày sẽ có GIỚI, ĐỊNH, HUỆ. Việc này phải tùy thuộc vào công việc chuyển hóa THÂN TÂM thực hành LỤC ĐỘ BA LA MẬT, rất quan trọng trên con đường THIỀN ĐỊNH.

    A- Làm sao chuyễn hóa Thân Tâm?.

    1-Luôn luôn phát Đại Nguyện thực hành pháp CHƠN, cho dù kiếp sống trải qua nhiều thăng trầm gần gũi với chúng sanh (12 loài), Nguyện không bỏ một chúng sanh nào...Tùy phương tiện ra vào làm AN LẠC.

    2-Tâm thường TƯỞNG ÂN ĐỨC đến vị THẦY..., Thầy là nguồn suối AN LẠC HẠNH PHÚC khai mở dòng TÂM THỨC PHIỀN NẢO và CHƠN NHƯ PHÁP GIỚI cho hành giả, ƠN ĐỨC này không gì so sánh đươc, cho nên hành giả PHẢI NHẤT TÂM THÀNH KÍNH vị thầy...( Vị Thầy sẽ thành tựu ĐẠO VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ trước khi hành giả viên mạn Trí Huệ ).

    3-Giữ TÂM ĐỊA GIỚI. Muốn thực hành đươc điều này đúng phương pháp hành giả phải xa lìa 4 Cú ( Có, Không, Cũng có, Cũng không...hay nói cách ngắn gọn LẤY TÂM VÔ TRỤ LÀM GỐC). Thường phải học Kinh Đại Bát Nhã và đưa vào đời sống hàng ngày thực hành qua nhiều hình thức.

    4-TRÌ CHÚ bất cứ CHÚ hay TỤNG KINH mỗi ngày 7 thời tùy theo vị THẦY TRUYỀN THỌ TÂM TRUYỀN TÂM. ( Nếu ngồi THIỀN phải dùng ẤN PHÁP ). Ghi chú: Tâm Truyền Tâm ở điểm này nói lên vị THẦY phải VIÊN THÔNG TỨ ĐẠI mới có khả năng trao truyền CHƠN PHÁP (Mật). Cảnh giới này vượt lên TRI THỨC thế gian...

    5-Khi vào cảnh giới VÔ VI,TÂM PHẢI BUÔNG XẢ, không bám trụ bất cứ hiện tượng nào khởi sanh, ngay cả một Ý NIỆM THIỆN và ÁC.

    6-Vô sanh đệ nhị chân như
    Dù mưa hay nắng thoáng trần hành ba
    Mật đường không khởi không ghi
    Phổ Đà đại nguyện khắc ghi ÁO VÀNG

    7-Trước khi thực hành những điều trên, hành giả phải thông suốt hai điều căn bản.
    (1) Người xuất gia phải thực hành Pháp. " Tứ Đại Giai Không "
    (2) Lục căn phải thanh tịnh......................................................................................

    Nếu hành giả không VIÊN THÔNG được YẾU TỐ CĂN BẢN này, cho dù THỰC HÀNH BẤT CỨ PHƯƠNG PHÁP HIỂN hay MẬT sẽ LẠC vào ÁC MA...KHỔ - KHỔ --KHỔ làm vô lượng chúng sanh BỊ ĐỌA....KHỔ KHỔ KHỔ VÔ CÙNG....RẤT CẨN THẬN...CẨN THẬN !

    ĐIỂM CHÚ Ý: thường ở cảnh giới này hành giả sẽ có THIÊN NHẢN thông, thấy được 7 hoa sen, kết thành THÂN PHẬT hay BỒ TÁT...4 hoa sen màu VÀNG, 3 hoa sen màu xanh dương...Tùy tâm tương ứng sẽ lãnh hội....( Còn Tiếp).

    Hẹn người kiếp trược thế nhân
    Gió thu sắp đến không giờ Nam Mô
    Say sưa một thoáng ra vào
    Danh lam chơn ngã, A Di niệm Đà

    ----------------------------------0o0--------------------------

     

    Read more »
  • Lợi Ích của Mật Chú Kim Cang

    Giải Thích Lợi Ích của Mật Chú Kim Cang Thượng Sư - OM AH HUNG VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUNG

    Giải Thích Lợi Ích của Mật Chú Kim Cang Thượng Sư

    OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM

    Trong tiếng Phạn:

    OM AH HUM VAJRA-GURU-PADMA-SIDDHI HUM

    Trong tiếng Phạn  được Tây Tạng hóa:

    OM AH HUNG BENZAR GURU PEMA SIDDHI HUNG
    Mật chú Kim Cang Thượng Sư là của Guru Rinpoche, còn được gọi là Padmasambhava (Liên Hoa Sanh).
    Câu mật chú này được dấu kỹ trong thời Liên Hoa Sanh ở Tây Tạng. Đến thế kỷ 14, được Karma Lingpa khám phá ra và chép lại trên vàng lá và được gọi là “giải thích từng lời của mật chú Kim Cang Thượng Sư.” Đây là cuộc đối thoại giữa Yeshe và Liên Hoa Sanh.


    -Bạch ngài Liên Hoa Sanh, ngài rất từ bi đối với chúng con, những người Tây Tạng, giáo pháp của ngài đã đem lại lợi lộc cho chúng con bây giờ và cho những thế hệ ngày mai. Lòng từ của ngài quá lớn, chúng con chưa bao giờ được cảm nhận ân sủng như thế. Mặc dầu bây giờ con chỉ là một người tầm thường nhưng con không chút nghi ngờ nào rằng mình sẽ chắc chắn được giác ngộ. Trong tương lai chúng sanh sẽ bị nhiều chuyện làm bận tâm trí họ. Tâm tính họ sẽ trở nên thô bạo, khó dạy. Họ sẽ có những quan niệm sai lầm về chánh pháp, họ sẽ vất bỏ mật chú tối thượng này. Lúc ấy chúng sanh sẽ chịu đau khổ vì bệnh hoạn, đói kém, chiến tranh. Vì các tai họa này, chúng sanh ở các nước Trung Hoa, Mông Cổ, Tây Tạng, sẽ chứng nghiệm sự rối loạn như một tổ kiến bị phá hủy. Lúc đó dân tộc Tây Tạng sẽ chịu khổ nạn rất lớn. Mặc dầu ngài đã chỉ dẫn những pháp môn, nhưng các chúng sanh trong tương lai không có thời gian để tu tập. Và dù họ có ý muốn tu tập thì cũng có rất nhiều trở ngại. Trong trường hợp ấy những người chỉ cậy nhờ vào câu mật chú Kim Cang Thượng Sư để tu tập. Con xin ngài chỉ rõ cho họ những lợi lộc khi tập câu mật chú này.


    - Này đạo hữu, những gì bà nói đều rất đúng. Trong tương lai, chúng sanh sẽ gập lúc như thế. Và lợi ích của mật chú Kim Cang  Thượng Sư sẽ được chứng nghiệm. Bởi vì những giáo lý và chỉ dẫn của tôi thì vô tận. Tôi đã dấu phần lớn giáo lý dưới các hang động, dưới suối nước, và trên trời. Trong thời dữ, ngay cả những người có nghiệp tốt cũng khó mà gập những giáo lý này. Rất khó để có đủ nhân duyên để các giáo lý này được phơi bầy, bởi vì cộng nghiệp của chúng sanh đã quá suy đồi.

    Tuy nhiên vào lúc đó, nếu đọc được mật chú Kim Cang Thượng Sư 100 lần, 1000 lần, 10000 lần, 1 triệu, 10 triệu, 100 triệu... ở nơi thánh địa, tu viện, ven sông bởi các tu sĩ, những cư sĩ đầy đức tin và tạo nên lòng từ bi trong quảng đại quần chúng thì những lực lượng tiêu cực: bệnh hoạn, đói khát, chiến tranh sẽ được chuyển hóa. Mưa sẽ rơi xuống những nơi hạn hán, mùa màng sẽ tốt tươi, dân chúng sẽ sung túc.

    Trong đời này, đời tương lai và trong thân trung ấm những người nào tập câu mật chú này sẽ lại gập tôi. Những người kha khá sẽ gập tôi nhiều lần trong giấc mộng. Những người xuất sắc sẽ gập tôi trong trạng thái tỉnh thức. Họ sẽ được đưa về quốc độ của tôi, chắc chắn là vậy.

     

    Nếu người nào đọc câu chú này 100 lần không gián đoạn trong một ngày thì sẽ được mọi người hoan hỉ, và không lo gì về vấn đề cơm áo.

    Nếu người nào đọc câu chú này 1000 lần đến 10 ngàn lần trong một ngày sẽ có ảnh hưởng lớn đối với mọi người xung quanh và có những ơn phước về tinh thần.

    Nếu người nào đều đặn đọc 1 triệu lần/ngày sẽ ích lợi cho rất đông chúng sanh.

    Nếu người nào đều đặn đọc 3-4 triệu lần/ngày sẽ không bao giờ tách rời khỏi chư Phật ba đời vì tôi và quỷ thần sẽ tới ca ngợi.

     

    Trong trường hợp xuất sắc người tập sẽ đạt tới mức độ cao nhất trong cuộc đời này là thân cầu vồng. Ở mức độ thấp hơn trong giai đoạn chết những ánh sáng mẹ và con sẽ gập gỡ nhau. Ở mức độ thấp nhất người ấy sẽ thấy mặt tôi trong giai đoạn thân trung ấm và được đưa về quốc độ của tôi.

     

    - Bạch ngài, xin cảm ơn ngài đã cho biết những ích lợi vô cùng của mật chú này. Vì lợi ích của những chúng sanh tương lai xin ngài hãy nói ngắn gọn từng lời của câu chú này.

     

    - Này đạo hữu, câu mật chú này là sinh lực cốt yếu của chư thần của bốn hạng tantra, 9 yana và 8 vạn 4 ngàn pháp môn. Là cốt tủy của chư Phật trong ba thời, của những thượng sư, chư thần, những thần hộ pháp, tất cả đều nằm trong câu chú này. Đạo hữu có thể hỏi tại sao lại được như thế? Hãy nghe cho kỹ và ghi nhớ trong đầu, hãy đọc đi đọc lại nhiều lần, hãy ghi nó ra và dây lại cho các chúng sanh trong tương lai.

     

    OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM
    OM AH HUM: đỉnh cao nhất của thân, khẩu, ý
    VAJRA: đỉnh cao nhất của vô hoại
    GURU: đỉnh cao nhất của báu vật
    PADMA: đỉnh cao nhất của liên hoa bộ
    SIDDHI: đỉnh cao nhất của hành động
    HUM: đỉnh cao nhất của siêu việt

    OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM
    OM: sự toàn vẹn của báo thân
    AH: sự bất biến của pháp thân
    HUM: sự trọn vẹn của ứng hóa thân của Liên Hoa Sanh
    VAJRA: sự toàn vẹn của các vị thần mạn đà la
    GURU: sự truyền thừa của các vị thượng sư
    PADMA: sự toàn vẹn của chư thần nam, nữ
    SIDDHI: sinh lực của các vị thần hộ pháp
    HUM: sinh lực của các vị thần bảo hộ


    OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM
    OM AH HUM: sinh lực của ba loại tantra
    VAJRA: sinh lực của giới và kinh
    GURU: sinh lực của du già nghi thức tầng tantra 1
    PADMA: sinh lực của du già thực hành tầng tantra 2
    SIDDHI: sinh lực của du già hợp nhất tầng tantra 3
    HUM: sinh lực của du già ati

     

    OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM
    OM AH HUM: tịnh hóa ba độc tham, sân, si
    VAJRA: tịnh hóa sự tức giận
    GURU: tịnh hóa sự ngạo mạn
    PADMA: tịnh hóa sự ham muốn
    SIDDHI: tịnh hóa sự ghen ghét
    HUM: tịnh hóa mọi cảm giác

     

    OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM
    Qua OM AH HUM: đạt được ba thân
    Qua VAJRA: đạt được sự tỉnh thức
    Qua GURU: đạt được sự yên bình
    Qua PADMA: đạt được sự sáng suốt
    Qua SIDDHI: đạt được sự toàn vẹn
    Qua HUM: đạt được sự nhận thức căn bản về không gian


    OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM
    Nhờ OM AH HUM: khuất phục được người, thần, thánh
    Nhờ VAJRA: khuất phục được ác ý của vài vị thần
    Nhờ GURU: khuất phục được ác ý của thần chết và ma quỷ
    Nhờ PADMA: khuất phục được ảnh hưởng xấu của phong đại và thủy đại
    Nhờ SIDDHI: khuất phục ảnh hưởng xấu của những lực phi nhân làm hại người
    Nhờ HUM: khuất phục những ảnh hưởng xấu của các tinh tú, thổ thần.

     

    OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM

    OM AH HUM: hoàn thành sáu đức tính
    VAJRA: hoàn thành sự bình an
    GURU: hoàn thành sự sung túc
    PADMA: hoàn thành sự từ trường
    SIDDHI: hoàn thành sự giác ngộ tổng quát
    HUM: hoàn thành sự giác ngộ


    OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM
    OM AH HUM: chuyển hóa mọi nguyền rủa
    VAJRA: chuyển hóa mọi tiêu cực
    GURU: chuyển hóa mọi tiêu cực của tám loại quỷ
    thần ở cõi ta bà
    PADMA: chuyển hóa mọi ảnh hưởng tiêu cực của
    thiên long bát bộ và thổ thần
    HUM: chuyển hóa mọi ảnh hưởng tiêu cực của
    người, thần, quỷ ở cõi ta bà

     

    OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM
    OM AH HUM: đánh bại năm độc
    VAJRA: đánh bại sự giận dữ
    GURU: đánh bại sự kiêu ngạo
    PADMA: đánh bại sự ham muốn
    SIDDHI: đánh bại sự ghen ghét
    HUM: đánh bại người, quỷ, thần

     

    OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM
    OM AH HUM: đạt được tinh thần hoàn mãn (siddhi)
    VAJRA: đạt được siddhi của những vị thần
    GURU: đạt được siddhi của những vị thượng sư
    PADMA: đạt được siddhi của những vị hộ pháp
    SIDDHI: đạt được siddhi tối cao
    HUM: đạt được siddhi mong muốn

     

    OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM
    OM AH HUM: đưa tâm thức đến những cõi tịnh độ
    VAJRA: đưa tâm thức đến Đông phương tịnh độ
    GURU: đưa tâm thức đến Nam phương tịnh độ
    PADMA: đưa tâm thức đến Tây phương tịnh độ
    SIDDHI: đưa tâm thức đến Bắc phương tịnh độ
    HUM: đưa tâm thức đến Trung Ương tịnh độ

     

    Nếu một người có thể nhận được lợi ích khi đọc câu mật chú này thì cả thế giới này cũng không đủ chỗ để chứa lợi lộc. Hễ ai nhìn, nghe, nhớ câu chú này đều được tỉnh thức. Nếu những lợi ích này không được thực hiện thì là tôi đã nói dối. Nhưng tôi không hề nói dối bao giờ vậy các môn đệ hãy thực hành theo lời chỉ dẫn của tôi. Nếu vì một lý do gì không thể đọc, các ông hãy viết vào lá cờ. Khi gió thổi vào lá cờ rồi gió thổi tới chúng sanh sẽ chắc chắn giải thoát họ.


    Các ông cũng có thể khắc lên đá sẽ giúp nơi khắc tránh được những ảnh hưởng xấu, hoặc viết chữ vàng trên giấy xanh đậm để làm hộ phù. Khi chết hộ phù này được đốt theo cơ thể và tâm thức sẽ được chuyển tới cõi cực lạc. Viết, đọc, tụng câu mật chú này đem lại lợi ích vô lượng. Vì lợi ích của các chúng sanh trong tương lai, tôi sẽ dấu kho báu này. Nguyện rằng các môn đệ trong tương lai của tôi có nghiệp tốt sẽ gập được nó.

     

    Ghi Chú: Liên Hoa Sanh là một vị thượng sư người Ấn độ sang Tây tạng vào thế kỷ thứ tám để truyền bá mật tông. Yeshe là vị đại đệ tử của ông. Người Tây tạng coi ông như một vị Phật. Theo lời giải thích của Dudjom và Dilgo Rinpoche thì trong câu mật chú Om, Ah, Hum là sự tịnh hóa và chuyển hóa thân, khẩu, ý, đồng thời cũng là sự tịnh hóa các huyệt đạo và những luồng khí lực trong thân. Đi xa hơn nữa nó là sự thực hiện ba thân: Pháp thân, hóa thân và ứng hóa thân.

    Câu mật chú có nghĩa là: Con triệu thỉnh ngài, đấng Kim Cang Thượng Sư, với ân sủng của ngài, xin hãy ban cho con những thành tựu thế gian và xuất thế gian. Câu mật chú có 12 âm là để tịnh hóa 12 nhân duyên khiến chúng sanh được thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.

     

    *

     

    THẦN CHÚ ĐẠO SƯ KIM CƯƠNG
    (VAJRA GURU MANTRA)

    Tổ chức Vajrayana Hawaii
    Việt dịch: Thanh Liên

    OM AH HUNG VAJRA GURU PEMA SIDDHI HUNG (Tạng ngữ)
     
    OM AH HÙM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HÙM (Phạn ngữ)

    Đạo Sư Liên Hoa Sanh

     

    Thần chú Đạo Sư Kim Cương (Vajra Guru Mantra) là thần chú được kết hợp với Guru Rinpoche - cũng được gọi là Đức Padmasambhava (Liên Hoa Sanh). Đây là một bản phác dịch của một bản văn kho tàng (terma) giải thích thần chú Đạo Sư Kim Cương. Lúc ban đầu nó được khám phá trong thời gian Đức Padmasambhava đang ở Tây Tạng và về sau được Karma Lingpa (thế kỷ 14) khám phá lại. Vị này lấy nó từ nơi được chôn dấu và sao chép nó trên giấy bằng vàng. Nó được gọi một cách đơn giản là “Âm tiết theo sự Chú giải Âm tiết Giải thích những Lợi ích và Thuận lợi của Thần chú Đạo Sư Kim Cương.” Nó bắt đầu với một lời khẩn cầu và sau đó trở thành một cuộc đối thoại giữa Yeshe Tsogyal - vị phối ngẫu tâm linh của Đức Padmasambhava – và chính Đức Padmasambhava.

    Và như thế, Yeshe Tsogyal bắt đầu:

    “Con, Yeshe Tsogyal, sau khi cúng dường Ngài mạn đà la trong và ngoài trên một phạm vi rộng lớn, con có khẩn cầu tiếp theo. Ôi Pema Jungne, Đạo Sư vĩ đại, Ngài đã cực kỳ tốt lành đối với chúng con, dân chúng Tây Tạng, khi để lại cho chúng con một di sản sẽ mang lại lợi lạc cho chúng con bây giờ và trong những đời sau. Thiện tâm của Ngài vĩ đại tới nỗi chúng con chưa từng kinh nghiệm bất kỳ điều gì như thế trước đây. Đặc biệt là Ngài đã ban cho con những giáo lý cốt tuỷ cho việc thực hành của con khiến cho giờ đây, mặc dù con chỉ là một kẻ tầm thường, nhưng con không nghi ngờ gì về việc con sẽ đạt được giác ngộ.

    Trong tương lai, những khoảng thời gian chú tâm của chúng sinh sẽ rất ngắn ngủi và rất nhiều sự việc sẽ phủ chụp và chiếm cứ tâm thức họ. Tính khí họ sẽ thô tháo và khó điều phục. Họ sẽ phát triển nhiều tà kiến đối với Thánh Pháp. Đặc biệt, sẽ tới lúc nhân loại sẽ truyền bá giáo lý Mật thừa thuộc những cấp độ tantra vô song. Vào lúc này, tất cả chúng sinh sẽ hết sức đau khổ bởi bệnh tật, nạn đói và chiến tranh. Do sự lan rộng của ba tai ương này mà cụ thể là Trung Hoa, Tây Tạng và Mông Cổ sẽ phải trải qua cùng một loại hỗn loạn như một tổ kiến khi bị huỷ diệt, vàsẽ tới lúc dân chúng Tây Tạng phải chịu đau khổ ghê gớm. Mặc dù Ngài đã từng nói rất chi tiết về nhiều phương tiện thiện xảo để cứu thoát những gì có thể ra khỏi tình huống đó, chúng sinh trong tương lai sẽ không có thì giờ để thực hành. Mặc dù họ có thể có chút khuynh hướng nhợt nhạt để thực hành, nhưng họ sẽ gặp nhiều trở ngại to lớn. Chúng sinh sẽ trải nghiệm rất nhiều sự bất hoà. Họ sẽ không thể hoà thuận hay đạt được bất kỳ loại hoà hợp nào, và theo sau điều này, hành vi của họ sẽ trở nên rất bất tịnh. Những thời đại tồi tệ như thế này sẽ rất khó tránh khỏi. Trong tình thế này, chúng sinh trong tương lai nương tựa duy nhất nơi Thần chú Đạo Sư Kim Cương như thực hành của họ sẽ có được những lợi ích và thuận lợi nào? Con xin Ngài thuyết giảng về vấn đề này vì lợi ích của những cá nhân trong tương lai, là những người không thể nhận thức điều này và vì thế cần phải giảng cho họ rõ.”

    Khi đó Đạo Sư vĩ đại Pema Jungne trả lời:

    “Ôi người phụ nữ trung thành, những gì con nói thì hết sưc chân thực. Trong tương lai, những thời đại như thế sẽ xảy tới với chúng sinh và trong một sự tri giác nhất thời lẫn phạm vi dài hạn, những lợi ích của Thần chú Kim Cương Đạo Sư có thể được cảm nhận một cách rõ ràng. Bởi những giáo huấn tâm linh và những phương pháp thực hành mà ta ban tặng thì vô biên nên ta đã cất dấu một số lượng rất lớn những giáo lý kho tàng (terma) trong nước, đá, không gian và v.v.. Trong những thời đại xấu ác đó, ngay cả những cá nhân với nghiệp may mắn cũng sẽ khó gặp được những giáo lý này. Sẽ khó hội đủ những hoàn cảnh cần thiết để khám phá được những giáo lý này. Đây là một dấu hiệu cho thấy công đức tập thể của chúng sinh đang bị suy hoại.
    Tuy nhiên, vào những thời đại như thế, nếu thần chú-cốt tuỷ này, thần chú Kim Cương Đạo Sư, được trì tụng càng nhiều càng tốt, một trăm lần, một ngàn lần, mười ngàn lần, một trăm ngàn lần, một triệu, mười triệu, một trăm triệu lần và v..v.., nếu nó được trì tụng ở những thánh địa, trong những đền chùa, cạnh những con sông lớn, trong những miền nơi có rất nhiều chư thiên và quỷ ma, nếu nó được trì tụng ở những nơi chốn này bởi những hành giả Kim Cương thừa có samaya (giới nguyện) trong sạch, bởi những người xuất gia giữ nguyện thật thanh tịnh, bởi những người nam và nữ có đức tin nơi giáo lý, nếu họ phát khởi Bồ Đề tâm ở một mức độ rộng lớn và trì tụng thần chú này, thì những lợi ích, thuận lợi và năng lực của thực hành như thế thì thật sự không thể nghĩ bàn. Thần chú này sẽ ngăn ngừa mọi thế lực tiêu cực của bệnh tật, nạn đói, sự náo động, những mùa thu hoạch kém và tất cả những điềm triệu và dấu hiệu xấu trong mọi quốc gia trên thế giới, chẳng hạn như mưa sẽ đổ xuống đúng lúc để luôn luôn cung cấp đủ nước cho nông nghiệp và đời sống của người và thú vật, và mọi miền sẽ được thịnh vượng và hưởng những điều kiện tốt lành.

    Trong đời này, những đời sau, và trong trạng thái trung ấm giữa sự chết và tái sinh, những cá nhân thực hành theo cách này sẽ liên tục gặp lại ta. Người xuất sắc nhất trong những cá nhân này sẽ thực sự gặp ta trong ý thức tỉnh giác của họ. Những người thuộc cấp độ trung bình sẽ gặp ta trong những linh kiến thiền định, và ít nhất, họ sẽ luôn gặp ta trong những giấc mộng. Dần dần khi hoàn thiện những con đường và những cấp độ khác nhau của sự thực hành, họ sẽ đạt được hàng ngũ của những bậc nam và nữ trì giữ giác tánh nội tại (Trì Minh Vương) trong cõi tịnh độ của ta tại đại lục Ngayab. Chớ nghi ngờ điều đó.

    Nếu thần chú này được tụng một trăm lần một ngày, chỉ đơn thuần một trăm lần một ngày mà không gián đoạn, hành giả sẽ trở nên thu hút người khác và sẽ có thực phẩm, của cải và những thứ cần thiết của cuộc sống mà không cần nỗ lực.

    Nếu hành giả tụng thần chú này một ngàn hay mười ngàn lần mỗi ngày, hành giả sẽ thực sự có thể trổi vượt người khác bằng sự chói sáng của mình, trở nên rất uy tín và có sức thuyết phục trong việc gây một ảnh hưởng tích cực trên những người khác, và hành giả sẽ có được sức mạnh của những ân phước và năng lực tâm linh mà không bị ngăn trở.

    Nếu hành giả trì tụng một trăm ngàn hay một triệu lần trên cơ sở đều đặn, hành giả sẽ có thể có khả năng thực hiện vô lượng lợi lạc vĩ đại cho chúng sinh, hoàn toàn như ước nguyện của hành giả.

    Nếu hành giả trì tụng thần chú ba hay bảy triệu lần, hành giả sẽ không bao giờ xa rời chư Phật ba thời và sẽ trở nên bất khả phân với ta. Tất cả các vị trời và quỷ ma sẽ chú tâm tới hành giả và dâng cho hành giả những lời tán thán của họ.

    Trong trường hợp tốt nhất, hành giả sẽ đạt được thân cầu vồng, cấp độ cuối cùng của sự thành tựu trong đời này. Ở cấp độ trung bình, vào lúc chết, tịnh quang mẹ và con sẽ gặp gỡ nhau. Ở cấp độ thấp nhất, hành giả sẽ nhìn thấy mặt ta trong trạng thái bardo và mọi sự xuất hiện trong bardo sẽ được giải thoát trong nền tảng của riêng chúng chẳng hạn như những hành giả này sẽ được tái sinh trong đại lục Ngayab và từ vị trí thuận lợi đó, có thể thành tựu vô số lợi lạc cho chúng sinh. Đức Guru đã trả lời Yeshe Tsogyal như thế.”

    Bà đáp lại:

    “Ôi Đạo sư vĩ đại, Ngài đã hết sức tốt lành khi tuyên thuyết về vô lượng lợi ích và thuận lợi to lớn này của năng lực tâm linh của thần chú này. Tuy nhiên đối với lợi ích của chúng sinh trong tương lai, một sự giải thích chi tiết vể Thần chú Kim Cưong Đạo Sư sẽ có lợi ích lớn lao, và vì thế con khẩn cầu Ngài nói vắn tắt về những âm tiết (chữ) khác nhau của thần chú này.”

    Đạo sư vĩ đại trả lời về điều đó như sau:
     
    “Ôi con gái của gia đình tốt lành, thần chú Kim Cương Đạo Sư không chỉ là thần chú cốt tuỷ duy nhất của ta, nó là tinh yếu hay sinh lực của tất cả các Bổn Tôn của bốn cấp tantra, của tất cả chín thừa, và của tất cả 84.000 pháp môn . Cốt tuỷ của tất cả chư Phật trong ba thời, của tất cả những guru, yidam (Bổn Tôn), những daka và dakini, những Hộ Pháp v.v.. cốt tuỷ của tất cả những vị này được chứa đựng và đầy đủ trong thần chú này. Con có thể hỏi cốt tuỷ này ra sao. Đâu là lý do để tất cả những điều này được đầy đủ trong thần chú này. Hãy đọc đi đọc lại nó. Hãy viết nó ra vì lợi ích của người khác, và giảng dạy hay biểu thị nó cho chúng sinh trong tương lai.

    OM AH HUNG VAJRA GURU PEMA SIDDHI HUNG
    OM AH HUNG là tinh tuý siêu phàm của những nguyên lý của thân, khẩu và ý giác ngộ
    VAJRA là tinh tuý siêu phàm của Bất Hoại (Kim Cương) bộ
    GURU là tinh tuý siêu phàm của Bảo Sanh bộ
    PEMA là tinh tuý siêu phàm của Liên Hoa bộ
    SIDDHI là tinh tuý siêu phàm của Nghiệp bộ
    HUNG là tinh tuý siêu phàm của Phật bộ.

    OM AH HUNG VAJRA GURU PEMA SIDDHI HUNG
    OM là sự tráng lệ và giàu có toàn hảo của Báo Thân, thân hiển lộ của sự tráng lệ
    AH là sự viên mãn bất biến tuyệt đối của Pháp Thân, thân hiển lộ của thực tại tuyệt đối
    HUNG làm toàn thiện sự hiện diện của Guru Padmasambhava như Hoá Thân, thân hiển lộ của sự hoá hiện
    VAJRA làm toàn thiện tất cả những Bổn Tôn Heruka của các mạn đà la
    GURU ám chỉ cội gốc và những guru truyền thừa và những bậc trì giữ giác tánh nội tại (Trì Minh Vương)
    PEMA làm toàn thiện tập hội các daka và dakini
    SIDDHI là sinh lực của mọi Bổn Tôn tài bảo và những vị bảo vệ kho tàng giáo lý
    HUNG là sinh lực của các Hộ Pháp, những Bổn Tôn bảo hộ.

    OM AH HUNG VAJRA GURU PEMA SIDDHI HUNG
    OM AH HUNG là sinh lực của ba cấp bậc tantra
    VAJRA là sinh lực của giới luật tu viện và Kinh thừa của giáo lý
    GURU là sinh lực của Luận và kriya (hành động) yoga, cấp bậc thứ nhất của tantra
    PEMA là sinh lực của charya (hành vi, hạnh kiểm) tantra, cấp bậc thứ hai của tantra, và yoga (hợp nhất) tantra, cấp bậc thứ ba của tantra
    SIDDHI là sinh lực của những cấp bậc giáo lý mahayoga và anuyoga
    HUNG là sinh lực của ati yoga, Đại Viên mãn Tự nhiên (Dzogchen). 

    OM AH HUNG VAJRA GURU PEMA SIDDHI HUNG
    OM AH HUNG tịnh hoá những che chướng phát sinh từ ba độc trong tâm – tham, sân, và si
    VAJRA tịnh hoá những che chướng bắt nguồn từ sự sân hận
    GURU tịnh hoá những che chướng bắt nguồn từ sự kiêu ngạo
    PEMA tịnh hoá những che chướng bắt nguồn từ sự khát khao và tham muốn
    SIDDHI tịnh hoá những che chướng bắt nguồn từ sự thèm muốn và ganh tị
    HUNG là một phương cách chung tịnh hoá những che chướng bắt nguồn từ tất cả những đau khổ thuộc cảm xúc.

    OM AH HUNG VAJRA GURU PEMA SIDDHI HUNG
    Nhờ OM AH HUNG hành giả đạt được ba Thân (kaya)
    Nhờ VAJRA hành giả chứng ngộ giác tánh nguyên sơ như-gương (Đại viên cảnh trí)
    Nhờ GURU hành giả chứng ngộ Bình đẳng tánh trí
    Nhờ PEMA hành giả chứng ngộ Diệu quan sát trí
    Nhờ SIDDHI hành giả chứng ngộ Thành sở tác trí
    Nhờ HUNG hành giả chứng ngộ Pháp giới thể tánh trí.

    OM AH HUNG VAJRA GURU PEMA SIDDHI HUNG
    Nhờ OM AH HUNG những vị trời, quỷ ma và loài người được điều phục
    Nhờ VAJRA hành giả có quyền năng đối với những thế lực ác ý của những vị trời và quỷ ma nào đó
    Nhờ GURU hành giả kiểm soát được những thế lực ác ý của Thần Chết và những quỷ ma ăn thịt người
    Nhờ PEMA hành giả kiểm soát được những ảnh hưởng xấu của yếu tố nước và gió (thủy đại và phong đại)
    Nhờ SIDDHI hành giả kiểm soát được những ảnh hưởng xấu của các thế lực phi-nhân và tinh linh mang lại họa hại và sử dụng sự khống chế tiêu cực sinh mạng của hành giả
    Nhờ HUNG hành giả kiểm soát được những ảnh hưởng xấu của các hành tinh và những tinh linh đất.

    OM AH HUNG VAJRA GURU PEMA SIDDHI HUNG
    OM AH HUNG thành tựu sáu đức hạnh tâm linh
    VAJRA thành tựu việc làm hoạt động làm an bình (tức tai)
    GURU thành tựu hoạt động làm giàu có (nhiêu ích)
    PEMA thành tựu hoạt động lôi cuốn (kính ái)
    SIDDHI thành tựu hoạt động giác ngộ nói chung
    HUNG thành tựu hoạt động giác ngộ phẫn nộ (hàng phục).

    OM AH HUNG VAJRA GURU PEMA SIDDHI HUNG
    OM AH HUNG ngăn ngừa mọi sự nguyền rủa và tai họa
    VAJRA ngăn ngừa những hậu quả tiêu cực của việc làm gãy bể samaya với những Bổn Tôn của giác tánh nguyên sơ
    GURU ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của tám loại trời và quỷ ma trong luân hồi sinh tử
    PEMA ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của những vị trời thế tục và quỷ ma
    SIDDHI ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của các vị rồng và tinh linh đất
    HUNG ngăn ngừa những ảnh hưởng tiêu cực của các vị trời, quỷ ma, con người, những vị trời trong luân hồi sinh tử.

    OM AH HUNG VAJRA GURU PEMA SIDDHI HUNG
    OM AH HUNG đánh bại đội quân của năm độc trong tâm.
    VAJRA đánh bại sự sân hận.
    PEMA đánh bại sự khát khao-tham muốn.
    SIDDHI đánh bại sự thèm muốn và ganh tị.
    HUNG đánh bại đội quân của các vị trời, quỷ ma và con người.

    OM AH HUNG VAJRA GURU PEMA SIDDHI HUNG
    OM AH HUNG đem lại những thành tựu tâm linh hay các siddhi.
    VAJRA đem lại siddhi (thành tựu) của những Bổn Tôn an bình và phẫn nộ.
    GURU đem lại siddhi của những vị trì giữ giác tánh (Trì Minh Vương) và các guru truyền thừa.
    PEMA đem lại siddhi của những daka, dakini và những Hộ Pháp.
    SIDDHI đem lại những siddhi thông thường và siêu việt.
    HUNG đem lại siddhi của việc hoàn thành bất kỳ điều gì hành giả mong muốn.

    OM AH HUNG VAJRA GURU PEMA SIDDHI HUNG
    OM AH HUNG chuyển di tâm thức tới các cõi Tịnh Độ của sự kinh nghiệm.
    VAJRA chuyển di tâm thức tới Tịnh Độ Hỉ Lạc Hiển Lộ phương đông.
    GURU chuyển di tâm thức tới Tịnh Độ Vinh Quang và Tráng Lệ phương nam.
    PEMA chuyển di tâm thức tới Tịnh Độ Cực Lạc phương tây.
    SIDDHI chuyển di tâm thức tới Tịnh Độ Hoạt Động Xuất Sắc phương bắc.
    HUNG chuyển di tâm thức tới cõi Tịnh Độ Bất Động ở trung tâm.

    Nếu một hình tướng vật lý có thể biểu lộ sự lợi lạc của ngay cả một lần trì tụng OM AH HUNG VAJRA GURU PEMA SIDDHI HUNG, thì toàn thể trái đất sẽ không chứa nổi những công đức. Tất cả những chúng sinh nhìn, nghe hay tưởng nhớ thần chú này sẽ dứt khoát được củng cố trong hàng ngũ những bậc trì giữ giác tánh (Trì Minh Vương) nam và nữ. Nếu đúng là những lời chân thực này của thần chú Kim Cương Đạo Sư không thực hiện cho chúng sinh những gì họ mong ước thành tựu giống như ta đã hứa, thì ta, Pema, đích thực là một kẻ lừa dối. Nhưng ta không dối gạt quý vị, vì thế quý vị nên thực hành phù hợp với những giáo huấn của ta.

    Cho dù quý vị không thể trì tụng thần chú vì bất kỳ lý do gì, quý vị nên treo nó trên đỉnh một ngọn cờ chiến thắng, ngay cả khi gió chạm vào nó, và làn gió đó chạm vào những chúng sinh, thì không còn nghi ngờ gì nữa, làn gió sẽ giải thoát họ. Quý vị cũng có thể viết nó trên đất sét hay khắc chạm trên đá. Thần chú này cũng sẽ bảo vệ con đường trên đó những chữ này được bố trí và canh giữ miền đất không bị những tác động xấu. Quý vị cũng có thể viết thần chú này bằng mực vàng trên giấy xanh dương đậm và mang nó như một bùa hộ mạng. Khi quý vị chết, nếu bùa này được đốt cùng tử thi của quý vị, những cầu vồng sẽ xuất hiện và tâm thức quý vị sẽ được chuyển di tới các cõi Cực Lạc. Không có cách đo đạc chính xác nào hay không tiêu chuẩn đo lường nào có thể xác định được những lợi lạc của việc viết ra hay đọc hoặc trì tụng thần chú này. Sau khi biên soạn bản văn này vì lợi ích của chúng sinh trong tương lai, ta cất dấu kho tàng này. Cầu mong nó gặp được một đứa con may mắn có thiện nghiệp của ta trong tương lai. Samaya. Đã niêm phong. Đã niêm phong. Đã niêm phong.”

    Nguyên tác: Tha Vajra Guru Mantra
    Vajrayana Foundation Hawaii
    Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên

    Source: TPVN

    Read more »
  • Thưc hành pháp nhanh chóng giác ngộ

    Những điều sau đây là một danh mục chỉ dẫn mà hầu hết các hành giả cần đi theo trên “Con đường nhanh chóng tới Giác ngộ”. Các bước này bao gồm:

    GIAI ĐOẠN I: Tìm kiếm và trở thành đệ tử của một bậc kim cương đạo sư đích thực có năng lực và phẩm chất. Đó có thể là một vị tăng hoặc ni, một cư sĩ có phẩm hạnh, một vị  lạt-ma, một rinpoche hay một pháp vương.

    GIAI ĐOẠN II: Đọc, lắng nghe, hiểu và thực hành giáo pháp “Thế nào là tu tập?” và phát triển tám cái nhìn đúng đắn cơ bản. Việc này giúp cho bạn có đủ điều kiện xứng đáng để thọ nhận các giáo lý bí mật. Bạn sẽ tiếp tục thực hành tám điều này sau khi bạn nhận được các giáo lý bí mật của Mật tông.

    Ba nhánh đầu tiên đề cập đến việc hiểu về những nguyên do của việc thực hành bất cứ hình thức nào của Phật giáo và người ta cần nhận thức rõ trước khi quy y.

    1. Nhận thức và sợ hãi sự vô thường (cái chết và sự tái sinh).
    2. Phát triển niềm tin vững chắc về sự đau khổ của vòng luân hồi.
    3. Phát triển tâm từ bỏ (tâm muốn thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử).
    4. Quy y Tam bảo hoặc Tứ bảo. Phát những lời thề nguyện đúng đắn.
    5. Nỗ lực tinh tấn, học hỏi những giáo lý công truyền của Đức Phật như những lời dạy trong Tam Tạng Kinh Điển cũng như trong những sách vở và các bài giảng của Đức Dorje Chang IIINữ Pháp Vương Dorje Pa Mu, thực hành Tứ Vô Lượng Tâm, Thập thiện , Lục độ ba la mật, Tứ Nhiếp pháp của Bồ tát, cắt bỏ các nghiệp xấu của tham, sân, si.
    6. Tuân thủ tất cả các giới luật: Nếu bạn vi phạm các giới luật thiêng liêng, bạn sẽ không thể giác ngộ trong đời này.
    7. Phát triển định lực bằng cách duy trì sự kiên định và không lay chuyển, không bám luyến vào niềm vui hay nỗi buồn hoặc bất kỳ trạng thái cảm xúc nào khác (bát phong), và phát triển trí tuệ Phật pháp. Trí huệ thì không thể chỉ dạy được. Nó là kết quả của việc trì giới cũng như thiền định và tu tập để loại trừ những trở ngại do nghiệp.
    8. Phát Bồ đề tâm

    Nếu trong thời gian thực hành tu tập bạn có những hành vi sai lầm, bạn sẽ gặp một số vấn đề. Bạn phải tự kiểm tra việc tu tập của bản thân mình. Đức Phật nói rằng bạn cần gìn giữ “cái tâm của người mới bắt đầu” trong suốt quá trình thực hành của bạn. Không ai khác có thể kiểm tra bạn. Bạn phải phát triển một lương tâm giám sát hành vi của chính mình. Bạn cần trở lại với khả năng lắng nghe tiếng nói nội tâm  để biết mình phải làm gì.

    Sự tiến triển trên con đường này và những “thành tựu” của bạn sẽ là minh chứng cho việc tu tập đúng đắn của bạn. Việc không có thành tựu chỉ có thể có nghĩa là bạn đã làm chưa đúng. Đây không phải là điều mà bạn có thể đổ lỗi cho một ai khác – bố mẹ của bạn, đạo sư của bạn hay những quyền năng cao hơn… Bạn phải chịu trách nhiệm cho sự chuyển hóa của mình, cần biết rằng có những bậc cao nhân sẽ giúp đỡ bạn nếu bạn đi đúng hướng. Làm sao để biết được thế nào là đúng hướng? Bạn hãy nghe giảng và đọc giáo lý của các pháp vương đích thực hay các rinpoche vĩ đại và theo dõi nhân và quả của các hành động của mình.

    GIAI ĐOẠN III: Hoàn thành “Những thực hành sơ khởi” cần thiết của Phật giáo bí truyền, học tập và thực hành “Năm mươi nguyên tắc” của Đạo sư Du già (Guru Yoga) và các văn bản bí truyền khác được xác nhận bởi bậc đạo sư kim cương của bạn. Bạn cũng có thể thọ nhận một số quán đảnh và gia trì nhất định để  tiêu trừ các trở ngại do nghiệp tiêu cực và gieo trồng những hạt giống nghiệp để thúc đẩy nhanh sự tiến triển của bạn.

    GIAI ĐOẠN IV: Thỉnh cầu và thọ nhận các quán đảnh và gia trì để thực hành tantra để trở nên giác ngộ và giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Thông thường, một bậc đạo sư kim cương sẽ quan sát đệ tử của mình trong khoảng 6 đến 12 năm trước khi trao truyền tantra nhằm xác định các điều kiện nghiệp của đệ tử để thọ pháp – trình độ tu tập, sự tận tâm, nỗ lực và lòng trung thành cũng như người đệ tử đó quan tâm tới việc làm lợi ích cho chúng sinh như thế nào. Việc phát Bồ đề tâm là điều kiện tiên quyết bắt buộc để có thể thực hành tantra thành công.

    Hầu hết các hành giả đều tuân theo tiến trình trên một cách tuần tự. Có một vài trường hợp đặc biệt không áp dụng theo tiến trình này. Một số người có thể đã được học những bài học này và đã hoàn thiện các thực hành này trong kiếp trước, hoặc có thể họ đã được nhận một sự miễn trừ riêng từ bậc đạo sư kim cương do có duyên nghiệp đặc biệt. Các bậc đạo sư chỉ có thể đưa ra sự miễn trừ này nếu người đệ tử đó được sự cho phép của chư Phật và Bồ Tát và điều này chỉ xảy ra thông qua quá trình quán đảnh bí mật bên trong.


    Source: Tuyenphap

    Read more »
  • Khí Công & Thiện Định Chữa Bệnh

    VAI TRÒ CỦA VIỆC “KẾT ẤN”
    TRONG KHÍ CÔNG & TĨNH TỌA TỰ CHỮA BỆNH

    Sức Sống Mới (Theo sahajayoga-vietnam.org)

    Hầu hết kinh điển Mật Tông đều nhấn mạnh rằng: Những mật chú đều là những chân ngôn của chư Phật và chư Bồ Tát có giá trị nhiếp tâm và truyền giảng vô lượng. Mật Chú giúp đỡ cho chúng sinh xa lìa tham, sân si, là những độc hại trong việc tu hành. Việc trì tụng những mật chú sẽ tiêu trừ các tai ương, giải cứu những ách nạn, đưa con người thoát khỏi cảnh giới sa đoạ. Thành thử, kiên tâm trì tụng với tất cả tâm thành, kết quả tốt đẹp không biết đâu lường được.

    Kinh Chuẩn Đề Đà Ra Ni của Mật Tông dạy những phương pháp trì tụng và nói về công năng của việc trì tụng những Chân ngôn. Có đến 10 bộ kinh dạy về Chân ngôn, từ thấp đến cao, mà trong ứng dụng bất cứ trình độ nào cũng tu tập được. Khi trì tụng lâu, sẽ được ứng hiện trong mộng tưởng.

    Kinh Chuẩn Đề dạy rằng: “Tu tập vững vàng sẽ tạo mộng lành. Hoặc mộng thấy chư Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng, Thiên Nữ. Hoặc mộng thấy tự thân bay lên hư không một cách tự tại. Hoặc vượt qua biển lớn, hoặc trôi nổi trên sông Giang Hà, hay lên lầu các, hoặc lên cây cao hoặc trèo lên núi tuyết, hoặc chế ngự được voi, sư tử, hoặc thấy nhiều hoa thơm cỏ lạ. Cũng có thể mộng thấy là vị tu hành, sa môn. Hoặc nuốt bạch vật, nhả ra hắc vật. Hoặc thâm nhập vào tinh tú, thiên hà…”. Trong khi trì tụng kinh điển này, thường phát ra ánh sáng lạ kỳ, do Phán nhãn mang lại. Có người thấy lạc vào cõi Tịnh Độ, cảnh giới giải thoát hoàn toàn. Cũng có người thấy được kiếp trước của mình.

    Nội dung

    Bộ kinh trên có giành phần lớn để nói về các Thần Chú: bản văn Thần Chú và công năng của Thần Chú. Thần Chú không sử dụng tùy tiện được. Phải có đức giác ngộ mới đọc Thần Chú có hiệu quả. Mật Tông nói về trường hợp nhiều đạo sĩ dùng những Thần Chú không đúng hướng gây tác hại: chẳng những không đạt được kết quả theo ý muốn, mà còn gây thêm những nguy hiểm khôn lường được. Nội dung các Thần chú này được phân chia ra 9 phẩm. Mỗi phẩm có sức nhiếp phục và sở cầu khác nhau:

    Nội dung 3 phẩm đầu

    Hạ Phẩm: nếu thành tựu hạ phẩm của Thần Chú, thì có thể năng nhiếp phục tất cả tứ chúng, phàm có sở cầu điều gì thì đạt được, sai khiến được nhiều hạng, kể cả Thiên Long cũng thuần phục. Những Thần Chú này lại còn có thể hàng phục được 45 loại trong các “trùng thú” và “quỷ mị”.

    Trung Phẩm: Khi thành tựu được việc dùng Thần Chú của Trung Phẩm, sẽ có công năng sai khiến được tất cả Thiên Long, Bát Bộ, khai mở những “bảo tàng” dấu kín. Cũng có thể đi vào trong Tu La Cung, Long Cung… bất cứ trong trường hợp nào.

    Thượng Phẩm: Nếu thành tựu được phần Thượng Phẩm, sẽ có được những khả năng phi thường: hoặc dùng phép khinh thân để chu du khắp nơi, cũng có thể dùng đến thuật “tàng hình” để tránh tai biến.

    Nội dung 3 phẩm giữa

    Hạ phẩm: Nếu thành tựu hạ phẩm của phần này (Trung Độ) sẽ điều hành được nhiều cảnh giới, tái sinh trong vô lượng kiếp, phúc huệ chiếu sáng trong 3 cõi, hàng phục chúng ma.

    Trung phẩm: Nếu thành tự phẩm này, thì có sức thần thông qua lại các thế giới khác, có khả năng chuyển hoá Luân Vương, trụ thọ trong nhiều kiếp sau này.

    Thượng phẩm: Nếu thành tựu phẩm này, sẽ hiệu chứng được nhiều phép lạ, từ Sơ Địa Bồ Tát trở lên.Trung độ là trình độ khó thành; chỉ những bậc cao tăng nhiều kiếp mới nhiếp phục được 3 phẩm này.

    Nội dung 3 phẩm cuối

    Hạ phẩm: Nếu thành tự phẩm này, sẽ đạt được Đệ Ngũ Địa Bồ Tát trở nên.

    Trung phẩm: Nếu thành tựu phẩm này sẽ đạt được từ Đệ Bát BồTát Địa trở lên.

    Thượng phẩm: Nếu thành tựu phẩm này, thì Tam Mật sẽ biến thành Tam Thân. Trong cảnh giới hiện tại thì có thể chứng quả “Vô Thượng Bồ Đề”.

    Ứng dụng những Mật Chú

    Những nhà tu hành Mật Tông dùng những Mật Chú trong những trường hợp cần thiết nhất và cũng hạn chế nhất để tránh những tác hại khác. Một trong những loại Mật Chú quan trọng và thông dụng là Mật Chú Đà Ra Ni (Dharani). Theo nguyên nghĩa thì Đà Ra Ni là bảo tồn, gìn giữ, chống lại những lôi cuốn khác bất cứ từ đâu tới. Những Mật Chú này dùng để khống chế vọng tưởng và vọng động. Trong một giá trị khác, Mật Chú Đà Ra Ni sẽ phát huy đạo tâm của hành giả đứng trước những thử thách nghiêm trọng. Tà ma, ngoại đạo đều bị Mật Chú Đà Ra Ni chế ngự ngay từ bước đầu. Dùng Mật Chú không thể khinh thường và thiếu cẩn trọng. Chỉ trong những trường hợp khổn cùng, cấp bách, không thể thoát khỏi tai kiếp thì mới đọc lên.

    Mật Chú Đà Ra Ni còn được gọi là “chân ngôn” hay “chân kinh” tức là những câu nói ngắn nhưng rất vi diệu, chân thật, “bất khả tư nghị” của chư Phật hay chư Bồ Tát. Mật Chú không thể giải nghĩa được hay lý luận được. Những buổi lễ quan trọng nhất của Mật Tông mới được dùng những Mật Chú này. Công dụng chính là đưa những sức huyền diệu, anh linh của vũ trụ đi vào trong nội tâm của con người. Mật Chú cũng có thể tiêu trừ những bệnh khổ do Tứ Đại gây ra. Những bệnh do Ngũ uẩn, hay do quỷ thần gieo rắc cũng có thể giải cứu bằng Mật Chú được. Cũng như Đàn Tràng (hay Đàn Pháp) (Mandala), Mật Chú có công dụng vô biên, khó lường được. Nhiều người coi thường Mật Chú và Đàn Tràng, cho nên khó giải thoát. Hiển Mật Viên Thông có chép rằng: “Ba đời của đức Như lai, chưa hề có vị Phật nào không theo Đàn Pháp mà thành Phật Đạo”.

    Lời dạy này mang hai ý nghĩa: (a) Mật Chú và Đàn Pháp vốn rất huyền diệu (b) Chỉ dùng đến hai loại này trong trường hợp cần thiết nhất mà thôi.Giá trị của Mật Chú Đà Ra Ni không thể lường được. Chẳng hạn như một cao tăng tụng Mật Chú với tất cả lòng thành của mình thì sẽ tiêu trừ những nghiệp chướng rừng vướng mắc vào nội tâm hay từng gây tai họa lớn lao. Sức tiêu trừ này khó hình dung được, nhưng giải toả được những nguy hiểm do tha nhân tạo nên.

    Những cao tăng Tây Tạng ít khi nói đến những Mật Chú. Theo họ, một giới tử nào vọng động trong việc dùng Mật Chú, tưởng là cứu cánh tu hành, sẽ bỏ mọi khả năng tu tập chính của mình để học Thần Chú. Mật Chú chỉ được dùng như là cẩm nang tối hậu chỉ được mở ra thực hiện trong một thời điểm cần thiết nhất. Một giới tử sau khi được Điểm Đạo hay Quán Đỉnh thì được nhắc nhở điều này.

    Kinh Thủ Lăng Nghiêm trong phần nói về công năng của những loại Thần Chú của Kim Cang Thừa (Tantra) có đoạn viết:- “Mật Chú của chư Phật vốn là phép bí mật. Chỉ có đức Phật với Phật tự biết với nhau mà thôi; các vị Thánh cũng không thể nào thông đạt về Chú được. Chỉ trì tụng là diệt được tội lỗi, nhanh chóng đạt được Thánh Vị” (Phẩm Chú Hạnh).

    Trong một đoạn khác có viết: “Thần Chú là mật ấn của chư Phật: Những vị Phật và Phật truyền cho nhau, người khác trong cảnh giới nào cũng không thể nào thông hiểu được…”

    Trong Hiển Thủ Bát Nhã Sớ viết: ” Chú là Pháp môn bí mật của chư Phật, không thể nào thấu hi#7875;u được nhân vị của những lời Chú”. Viễn Công Niết Bàn Sớ khi luận về Thần Chú cũng viết: “Chân Ngôn chưa chắc là chuyên ngữ của người Thiên Trúc. Nếu đem ra phiên dịch thì lại không hiểu nổi, vì lẽ đó cho nên không thể nào phiên giải được…”.

    Thiên Thai Chỉ Quán của Thiên Thai Tông cũng viết về các Thần Chú như sau: “Chỉ có bậc Thánh Thượng thì mới có thể nói đến (giải lý đến) 2 pháp: Mật và Hiển. Những kẻ phàm nhân chỉ có thể xưng tán được những lời kinh trong Hiển Giáo; còn về Mật Giáo thì không giải thích được. Đà Ra Ni, nhân vị của Thánh Hiền không thể nào hiểu giải được, chỉ có thể tin mà thọ trì mà thôi. Trì Chú thì có thể diệt được mọi nghiệp chướng, kết tựu được phước đức”. Theo những cao tăng của Mật Giáo, những Mật Chú (Mantras) là Viên Mãn, nếu giải thích ra chỉ là phiến diện, có thể sai lầm nữa. Thành thử không nên tìm cách để giải thích. Những kinh sách cho rằng: đây là guyên nghĩa của những câu Thần Chú chỉ là ngụy ngôn.

    Mật nghĩa chỉ là “bất khả tư nghị”. Trong Pháp Hoa Sao Sớ có đoạn nêu rõ rằng: “Về Bí Pháp của chư Phật, thì không thể nào hiểu được ý nghĩa, cho nên được gọi là Mật ngôn”. Bát Nhã Tâm Kinh viết: “Tổng trì cũng như loại thuốc thần, như Cam Lộ, uống vào thì lành bệnh, nhưng khi phân tích trong đó có gì, là điều sai lầm. Tuy là mật ngôn, nhưng công dụng, giá trị của những lời Thần Chú này thật bao la”.

    Theo Đà Ra Ni Kinh thì: “Thần Chú vốn là tối thắng, có thể giải trừ được tội lỗi của chúng sinh, giải thoát được sinh tử luân hồi, chứng quả Niết Bàn, an lạc pháp thân…”.

    Khi tụng những câu Thần Chú, phải chú ý đến toạ bộ. Chẳng hạn như trì tụng Đại Tam Muội Ấn thì: “Lấy hai tay ngửa ra, rồi tay hữu để lên trên tay tả, hai đầu ngón cái giáp lại với nhau, để ngang dưới rốn”. Thực hiện việc trì tụng này, kết quả không lường được: Ấn này có thể diệt được tất cả cuồng loại, vọng niệm, điên đảo, tư duy tạp nhiễm.

    Còn khi chấp thủ về Kim Cang Ấn Quyền thì kết ấn như sau đây: “Lấy ngón cái để trong lòng bàn tay bấm tại đốt vô danh chỉ giáp lòng bàn tay, rồi nắm chặt; sau đó tay phải cầm chuỗi ký số, miệng tụng: “Tịnh pháp giới chân ngôn” (108 biến).

    Ấn này trừ được nội ngoại chướng hiện ra hay nhiễm phải; thực hành đúng đắn thì thành tựu tất cả công đức.

    Về Chuẩn Đề Chú thì kết ấn như sau: “Sau khi đảnh lễ (3 lạy) xong, thì hành giả ngồi kiết già. Lấy ngón tay áp út và ngón út bên mặt và bên trái xỏ lộn với nhau vào trong hai lòng bàn tay; dựng hai ngón tay giữa thẳng lên, rồi co hai ngón tay trỏ mà vịn vào lóng đầu của hai ngón giữa; còn hai ngón tay cái thì đè lên lóng giữa của ngón áp út bên mặt. Để ấn này ngang ngực.Sau đó chí tâm tụng 108 lần câu chú “Chuẩn Đề” và chú “Đại Luân Nhất Tự” như sau: “Nam Nô Tát Đa Nẫm, Tam Miệu Tam Bồ Đề, Cu Chi Nẫm, Đát Điệt Tha. Án Chủ Lệ, Chủ Lệ, Chuẩn Đề, Ta Bà Ha – Bộ Lâm.”

    Có thể trì tụng nhiều hơn nữa. Khi niệm số đã ấn định, muốn nghỉ thì xả ấn lên trên đỉnh, kế đó dùng tay mặt kiết ấn Kim Cang Quyền mà ấn theo thứ tự 5 vị trí như sau: 1) Trên đảnh đầu 2) Nơi vai bên trái 3) Ở vai bên mặt 4) Tại ngang ngực 5) Nơi yết hầu

     

    o O o

    ẤN CHÚ VÀ MÀU SẮC

    Nguồn: Phật Giáo Việt Nam Net (phatgiaovnn.com)


    Màu sắc có ảnh hưởng đến tâm trí và đời sống của chúng ta trên mọi mức độ. Trong liệu pháp bằng màu sắc, nhiều sắc thái màu sắc được ứng dụng rõ rệt để phục hồi các cơ quan và các tuyến, cũng như khởi động quy trình bài tiết, hô hấp, sự lưu thông. Màu sắc cũng có ảnh hưởng đến tâm trạng của chúng ta và mỗi loại hoạt động tâm trí.

    Màu đỏ kích thích sự lưu thông, linh lợi, ấm áp, và thư giản, nhưng cũng có thể đem đến sự gây hấn

    Màu cam cải thiện tâm trạng, cải thiện sự nhanh nhẹn, kích thích giới tính, nhưng cũng có thể kích thích tính hời hợt

    Mầu vàng : kích thích sự tiêu hóa, làm tâm trí chúng ta tỉnh táo, và làm cuộc sống xuất hiện dướI ánh sáng rực rỡ, nhưng nó cũng có thể gây khó chịu

    Màu xanh lá thường thì làm an tĩnh, làm phục hồi ở mọi mức độ, và làm cho chúng ta mong muốn bắt đầu một điều gì mớI mẻ

    Màu xanh da trời cũng đem đến sự an tĩnh, nhưng sự an tĩnh ở mức độ sâu lắng hơn và đem đến một cảm giác an toàn. Nó truyền sự bảo hộ và là biểu tượng của sự khao khát âm thầm khó hiểu.

    Màu tím là màu của sự biến chuyển, thay đổi, và duy linh

    Màu nâu là màu của sự ổn định và kết nối với trái đất, nhưng cũng có thể dẫn đầu của sự trì trệ, mụ mẫm bao gồm quang phổ của tất cả các màu khác trong nó, chứa luôn sự Sinh cũng như Tử.

    Màu đen là màu của sự bảo vệ, tăng cường, ẩn dật, và của sự rỗng không mà ẩn chứa sự phong phú bên trong bản thân

    Không có màu xấu. Mỗi một màu trên có thể thấy xuất hiện trong hào quang hay năng lượng của cơ thể. Khi một màu sắc tăng ưu thế hay ở không đúng chỗ, nó sẽ có tác động đầu tiên lên mọi cảm xúc, sức khỏe của tinh thần và thể xác. Về lâu dài, một sức khỏe mất ổn định là một hậu quả đương nhiên. Dầu sao,cũng có thể đảo ngược tiến trình bệnh hoạn bằng sự giúp đở của màu sắc.

    Bạn cũng có thể có một vài kinh nghiệm đẹp đẽ về việc thiền định với màu sắc. Nếu bạn thích một màu nào đó hơn, nó có thể cũng chính là một phẩm chất tương ứng cần thiết. Tuy nhiên, nếu bạn chuyên tâm ham thích quá nhiều về một màu, nó có thể phát triển thành thói nghiện và màu sắc có thể làm hại bạn. Trong lúc bắt ấn, bạn cũng có thể đồng thời tưởng tượng một màu sắc hay tập trung về màu của một chủ đề liên quan. Với sự tưởng tượng màu sắc rồi sẽ trở nên sống động.

    ẤN: Cách chữa bệnh cổ xưa bằng bàn tay

    Ấn trong nghĩa căn bản nhất là những biểu tượng, sắp xếp hình thể của bàn tay. Ấn là một trong những cách chữa bệnh cổ xưa nhất đã có từ hàng ngàn năm năm về trước. Cách bắt ấn không những được thực hiện bằng tay mà còn bằng mắt, cử động của cơ thể, các kỹ thuật hô hấp và Chú (mantra)

    Bàn tay tương ứng và liên kết với các phần khác của cơ thể và cảm xúc. Chúng có liên hệ với các vùng trong não bộ và cả linh hồn của bạn

    Bàn tay có thể giúp bạn tập trung, thư giản, chữa lành, trẻ hoá và quân bình hệ thống thần kinh của bạn

    Bàn tay luôn hợp tác với sự xoa dịu và chữa trị. Chúng ta thường sờ tay một cách vô thức vào những chỗ đau trong cơ thể

    Có một sức mạnh chắc chắn trong sự bắt chéo, uốn cong, duỗi thẳng hoặc sờ mó của bàn tay.

    Có sự liên hệ trực tiếp giữa bàn tay và các bộ phận cơ thể khác, sự liên quan trực tiếp giũa các bàn tay và cổ khi các đường dây thần kinh đều chạy qua đốt xương sống xuyên suốt qua cánh tay, bàn tay và các ngón tay. Sự mềm dẻo của bàn tay luôn luôn ảnh hưởng tới sự mềm dẻo của cổ. Bởi vậy vận động các bàn tay là làm cho cổ bớt bị căng thẳng. Hơn nữa, duỗi thẳng các bàn tay ra tức thì tạo ra các phản ứng dây chuyền làm cho ngực cũng căng ra. Sự căng phồng của lồng ngực này là kết quả của sự làm việc từ mười ngón tay

    Bàn tay và các ngón tay cũng có sự liên quan trực tiếp tới tim và phổi. Khi tuổi tăng cao, nhiều người già không thể duỗi thẳng các ngón tay ra được nữa. Điều này chứng tỏ có sự căng thẳng trong vùng tim và báo trước cho các bệnh về tim mạch và chứng loãng xương, làm cho người bệnh khó thở vô: kết quả là một lượng lớn không khí không vào được sâu trong phổi, đặc biệt là các vùng ven ngực khiến cho các vùng này bị nhiễm trùng

    Người tập phải giữ ấn trong bao lâu cũng là một vấn đề nữa. Dù có giữ ấn lâu hay mau thì sức mạnh chúng ta vẫn cảm nhận được. Nên lựa chọn vài ấn trong khi ngồi thiền hàng ngày. Thật thú vị khi chúng ta có thể cảm nhận được những cảm xúc khi chúng ta chuyển theo các vị thế tay khác nhau

    Ấn YONI

    1- Ngồi ngay ngắn thoải mái

    2- Thư giãn và thở bình thường

    3- Hít vô và giữ hơi thở trong khi bịt hai lỗ tai bằng các ngón cái

    4- Nhắm mắt lại, các ngón trỏ kéo nhẹ hai mí mắt

    5- Bịt hai lỗ mũi bằng hai ngón giữa và miệng với ngón đeo nhẫn và các ngón út ở môi trên và môi dưới

    6- Nhíu hậu môn và hơi dướn người lên khỏi sàn nhà

    Nhíu và nín thở càng lâu càng tốt, tự cảm nhận trong thân xác. Tập trung vào huyệt Bindu (Thiên Môn) ở phía sau đỉnh đầu, lắng nghe những tiếng rì rào trong cơ thể. Lập lại các động tác. Khởi đầu bằng 3 lần, sau tăng lên tối đa 12 lần

    Ấn NAGA

    Naga là nữ hoàng Rắn. Tượng trưng cho sức mạnh siêu nhiên, sự khôn ngoan và khả năng cũng có tên là “Ấn của cái nhìn sâu thẳm bên trong”

    Giơ tay trái lên, lòng bàn tay hướng vào mặt với các ngón chỉ lên trên, đặt ngón cái tay phải ở giữa lòng bàn tay trái sao cho các ngón tay phải dựa vào lưng bàn tay trái. Để ngón cái tay trái bắt chéo qua ngón cái tay phải, các bàn tay ở ngang tầm ngực “ngay cả khi chúng ta đi trên con đường tâm linh nhưng đôi khi chúng ta vẫn còn vướng mắc chuyện trần thế.

    Chỉ có bằng cách làm việc qua những thách đố này thì chúng ta mới mong tiến bộ được và chỉ có thế chúng ta mới đạt được tiến bộ trong cuộc sống. Bởi thế ấn Naga được dùng để giải quyết mọi vấn đề hàng ngày của chúng ta. Những câu trả lời cho các câu hỏi và các quyết định được làm, ý nghĩa của vấn đề đặc thù, tương lai và con đường tâm linh. Khi chúng ta cần biết điều gì lập tức chúng ta sẽ biết vào đúng lúc, nhưng với điều kiện là chúng ta phải đặt câu hỏi và luôn lắng nghe”.

    Ấn cho cái Ta nội tại:

    Đặt đầu các ngón tay trỏ, giữa ngón nhẫn và ngón út và các gò của bàn tay bạn, đặt ngón cái bên cạnh nhau, chúng dẫn tới các đầu ngón tay của các ngón út mà chúng chạm vào. Một khoảng rỗng qua đó ánh sáng lọt vô hợp bởi đầu các ngón út làm tăng cường năng lực của trái tim qua sự sống thiêng liêng. Giữ vị thế tay này ở trước trán nhìn qua lỗ hỗng càng lâu càng tốt, hạ tay xuống ngang cầm một lát, giữ hơi thở sau đó thở ra nhè nhẹ.

    Bắt Ấn ( Mudra Yoga )

    Ấn theo tiếng Phạn có nghĩa là “ Khép kín năng lượng”. Khi chúng ta khép kín năng lượng thì năng lượng được tập trung. Một khi năng lượng được tập trung thì có sức mạnh vô tận. Chúng ta có thể học được cách đạt tới năng lượng vô hạn của chúng ta bằng cách áp dụng việc bắt ấn.

    Ấn biến đổi theo hiệu quả của mỗi ấn khác nhau trên cơ thể, tinh thần và tâm thức của con người. Ấn làm quân bình nguồn năng lượng cũng như kênh dẫn tới các trung tâm năng lượng đặc thù.

    Ấn sử dụng bàn tay, mắt và toàn thân để kích động năng lượng. Lẽ dĩ nhiên là tất cả các ấn đều mang lại cho tinh thần một sự quy tụ tối hậu. Việc bắt ấn được thực hành trong suốt thời kỳ lịch sử loài người. Trước khi có ngôn ngữ cảm xúc được tạo các cử chỉ của các ngón tay để diễn đạt, để thông tin. Rồi tiến trình tiếp diễn các cử chỉ bàn tay hòa theo các từ, các câu và ngôn ngữ…

    Bàn tay từng là biểu tượng của nguyện cầu và của năng lực cao hơn. Vào khoảng 1500 năm trước Thiên Chúa, thần RA đầy năng lực của Ai Cập được mô tả như chùm tia nắng tỏa ra ở mỗi bàn tay xòe ra. Ấn là phần rất quan trọng trong các lễ nghi tôn giáo, các nghi thức Ấn giáo và Phật giáo.

    Ấn nguyện cầu với các bàn tay chắp lại tại con tim biểu tượng nguyện cầu và sùng kính đối với người Công giáo. Các cử động bàn tay được thực hành bởi các nhóm triết học, tôn giáo và tâm linh khác nhau trên khắp thế giới.

    Thủ ấn còn được kết hợp vào các thực hành (thế tập) yoga khác nhau như là các chuỗi yoga tam điểm và pranayama, tập trung tư tưởng, cầu nguyện, thờ phượng, thiền định, khiêu vũ và các diễn đạt khác.

    Bàn tay còn biểu hiện bản ngã của chúng ta nữa. Bởi lý do đó, có người từng nói là bắt ấn là một cách để liên lạc thông tin với Devi năng lực vũ trụ.

    Bắt ấn có thể làm với một hay hai tay cùng một lúc. Tay phải tượng trưng cho ngoại ngã, tay trái cho nội ngã. Mỗi ngón tay lại có ngôn ngữ riêng. Loại ấn còn được xác định bởi các trạng thái khác nhau như nơi mà các ngón tay chạm vào, định chỗ và nơi chốn mà ấn được bắt.

    Khi mà ấn bàn tay xòe lướt từ nơi này đến nơi khác thì cũng ví như bàn tay đang khiêu vũ. Các bàn tay xòe, khép vào những ấn khác nhau cũng giống những tư thế chuyển từ nơi này đến nơi khác.

    Bàn tay được dùng để diễn tả, làm việc và chia sẻ với người khác. Chúng vô giá và mạnh mẽ. Bàn tay chúng ta là vật bán dẫn cho năng lượng vì chúng điều khiển năng lượng và làm tập trung tinh thần. Vì thế, sự áp dụng đúng đắn việc bắt ấn bằng tay có thể tăng cường vai trò bàn tay trong cuộc sống. Các cuộc nghiên cứu đã chứng minh rằng khi người ta làm các động tác bằng tay và cánh tay thì cũng giúp cho tiến trình suy tư.

    Với một đại sư Yoga, bắt ấn khi được làm đồng thời có thể truyền đạt được năng lực. Có rất nhiều bức họa vẽ các vị Thánh với bàn tay ban phước lành hoặc của thiền sư, một người cầu nguyện và thiền định.

    Thủ ấn Anjali – Ấn cầu nguyện

    Khi chắp tay ở trung tâm trái tim, ấn Anjali tạo ra một cảm xúc tôn thờ, quân bình năng lực trí tuệ và thể xác, làm dịu tinh thần.

    Thủ ấn Lakshmi Devi

    Để tay vào ấn Anjali (tư thế cầu nguyện). Rẽ ngón thứ tư. Đặt các ngón thứ nhì đằng sau ngón thứ tư. Hướng đầu ngón thứ nhì về đầu các ngón cái. Chạm chúng nếu có thể. Đan các ngón thứ năm. Các ngón thứ nhất hướng ra ngoài, bên cạnh ngón kia.

    Nhãn ấn

    Thường được dùng như một cách thực hành Pratyahara, sự thâu nhận tâm trí từ các đối tượng giác quan.

    Thông tin thu nhận bằng mắt thì nhiều hơn bất kỳ các giác quan khác. Người ta nói rằng gần 60% thông tin được thu nhận trong lúc chúng ta lắng nghe ai đó, là những gì chúng ta nhìn thấy. Xuyên qua sự quan sát, mắt thâu nhận phần lớn kiến thức từ giác quan. Vì thế, sự thâu nhận của tâm trí thông qua các đối tượng giác quan, mắt cần được nhìn thấy như cái cách mà sự vật diễn đạt. Có nhiều nhãn ấn cho mắt nhắm và khi mắt mở.

    Hai mắt nhìn thấy hai mặt. Tại thế giới ngoại quan, từng cặp hiện diện đối kháng. Sự chiến đấu giữa thiện và ác, ánh sáng và bóng tối. Khi nhãn quan nội tâm khai mở, có một kinh nghiệm quyền lực vượt lên trên các cặp đối kháng nhau. Thượng trí bừng sáng và soi đường.

    Để khai mở nội nhãn, ấn nhãn có thể giúp đỡ to lớn. Ấn nhãn hướng kênh năng lượng lên đến nội nhãn. Năng lượng tập trung về một điểm cụ thể nhờ sự kết hợp quyền lực tinh thần và vật chất của ấn nhãn.

    Trong thiền định, một trãi nghiệm sự chuyển động tự nhiên của mắt có thể thành ấn. Hai mắt nhắm lại và nhìn hướng lên nhẹ, tự nhiên hai tròng bên trong, như dòng năng lượng hướng lên. Với cách này, ấn có thể được truyền dẫn như ngoại ấn (outside-in) hay ấn thể hiện (applying mudra) và nội ấn (inside-out) hay ấn tự sinh (spontaneous mudra).

    Thân ấn

    Hành giả yoga từ lâu đã khám phá ra rằng vị thế thân xác tối hậu để năng lực tuôn chảy và tinh thần được tập trung là để cho cơ thể buông xả trong tư thế ngồi tam giác. Ở tư thế ngồi, hai bàn chân là gốc của tam giác trong khi đầu là ngọn tam giác. Bởi vậy, thế ngồi hoa sen và các thế ngồi khác được chọn để ngồi thiền. Tùy theo công việc cơ thể được chọn thế đặc thù sẽ có công dụng tốt nhất. Tất cả các môn thể thao đều có tư thế đặc thù, người ta thay đổi thế tùy nhu cầu. Khi ngồi thẳng lưng thì ta sẽ cảm thấy có nhiều năng lực.

    Bằng cách giữ sự buông xả trong hành động thì cơ thể trở nên ấn – yoga tam điểm di chuyển cơ thể vào ấn duyên dáng. Cơ thể cảm thấy quy tụ đầy năng lực để lấp đầy định mệnh con người.

    VAI TRÒ CỦA VIỆC “KẾT ẤN” TRONG KHÍ CÔNG & TĨNH TỌA TỰ CHỮA BỆNH

    Ấn thường được thể hiện trong các tranh, tượng của nhiều nền văn hóa khác nhau. Đặc biệt khi nói đến khí công và tĩnh tọa, nhiều người thường liên tưởng ngay đến các vị đạo sư hoặc những nhà khí công ngồi thiền, hai tay bắt ấn! Tại sao phải bắt ấn? Phải chăng ấn chỉ liên quan đến những điều huyền bí, mê tín, không giải thích được? Bài viết sau đây sẽ đề cập đến ý nghĩa và tác động khí hóa của ấn trong việc luyện tập khí công và tĩnh tọa tự chữa bệnh.

    MỖI NGÓN TAY LÀ MỘT BIỂU TƯỢNG THU NHỎ CỦA CƠ THỂ

    Án ma liệu pháp có lẽ là một hình thức trị bệnh tồn tại sớm nhất trong xã hội loài người. Liệu pháp này xuất phát từ những kinh nghiệm ngẫu nhiên day, ấn, bấm hoặc xoa bóp vào những vùng hoặc những điểm nhất định ở ngoài da để đạt được hiệu quả giảm đau trên những bộ phận ở xa hoặc sâu hơn trong cơ thể. Dần dần những nghiên cứu về hiệu ứng toàn tức sinh vật và phản xạ thần kinh đã làm sáng tỏ và phát triển thêm kinh nghiệm của người xưa. Những kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với quan điểm truyền thống về Thiên nhân tương ứng. Con người và vũ trụ là đồng thể. Con người là một vũ trụ thu nhỏ. Xa hơn, mỗi một bộ phận riêng biệt của cơ thể cũng lại là một tiểu vũ trụ có những điểm tương đồng, tương ứng với cái toàn thể của cơ thể. Nổi bật nhất trong số những vùng phản xạ, những vũ trụ thu nhỏ là hai lòng bàn tay và cả những ngón tay, với các đầu ngón tay là cơ quan xúc giác chủ yếu, nơi tập hợp những đầu mút thần kinh vô cùng tinh tế và cũng là nơi khởi đầu (Tĩnh huyệt) của những đường kinh Dương.

    Có thể nói mỗi ngón tay đều có đầy đủ đặc tính của cả cơ thể. Đầu ngón tay ứng với phần đỉnh đầu. Phần dưới của các ngón, nơi tiếp giáp giữa ngón tay và bàn tay ứng với phần hạ bàn; Ba đốt ngón tay tính từ đầu ngón trở xuống lần lượt tương ứng với 3 phần thượng tiêu, trung tiêu và hạ tiêu của cơ thể. Do đó về mặt khí hóa, kết ấn hay bắt ấn là tác động vào đầu ngón tay, hoặc các gốc ngón tay cũng đồng nghĩa với kích hoạt những huyệt ở vùng đỉnh đầu hoặc vùng xương cùng, hai khu vực thu, xả và giao hòa giữa nội khí của cơ thể với thiên khí hoặc địa khí của vũ trụ bên ngoài

    MỘT SỐ HIỆU ỨNG KHÍ HÓA CỦA ẤN

    Kích hoạt thăng giáng theo quy luật tự nhiên. Theo học thuyết kinh lạc của y học cổ truyền, các đường kinh Dương đi từ trên giáng xuống và các đường kinh Âm đi từ dưới thăng lên. Do đó khi cơ thể ở trong tình trạng thư giãn thích hợp, nếu tác động vào các đầu đường kinh thì kinh khí của các đường kinh sẽ lên hoặc xuống theo đúng quy luật của nó. Như vậy, khi ta ấn vào các đầu ngón tay là đã tác động trực tiếp vào Tĩnh huyệt của một đường kinh Dương và cả huyệt Bách hội ở đỉnh đầu – nơi tập hợp của các đường kinh Dương – nên có tác động giáng khí. Ngược lại, nếu ta tác động vào gốc các ngón tay sẽ kích hoạt hai huyệt Trường cường và Hội âm ở vùng xương cùng và các đường kinh Âm nên có tác dụng thăng khí. Y học cổ truyền cho rằng “thống tất bất thông, thông tất bất thống”. Hơn nữa, nếu các kinh mạch thông suốt thì những tạng phủ tương ứng cũng hoạt động điều hòa và cơ thể khỏe mạnh. Do đó, tác động thăng giáng luân lưu ở các đường kinh có ý nghĩa rất quan trọng trong việc dưỡng sinh và chữa bệnh.

    Thiên Bệnh lý của Nội kinh có ghi “trăm bệnh sinh ra đều do nơi khí”. Đặc biệt là ở thời đại ngày nay, tính cạnh tranh cao và nhịp sống quá nhanh khiến con người thường xuyên phải lo lắng, căng thẳng. Chính những cảm xúc âm tính dai dẳng đã dẫn đến khí uất, khí nghịch – là đầu mối của nhiều thứ bệnh. Trong điều kiện này, nhất là ở giai đoạn đầu khi bệnh còn chưa gây ra những tổn thương thực thể thì chỉ cần điều hòa khí hóa, cân bằng âm dương, làm cho dương giáng, âm thăng, giải tỏa tình trạng khí uất, khí nghịch là đủ để phục hồi sức khỏe. Trong những trường hợp này, thư giãn và bắt ấn có lẽ là phương pháp nhanh, hiệu quả và thuận tự nhiên nhất trong việc tái lập tình trạng khí hóa bình thường

    Khai mở một huyệt vị, khai thông một đường kinh, tăng cường nội khí. Y học truyền thống và khí công cổ đại đều cho rằng con người và vũ trụ thăng giáng, giao hòa thông qua hô hấp “hô tiếp thiên căn, hấp thu địa khí”. Sự giao hòa này diễn ra chủ yếu ở hai khu vực đỉnh đầu và xương cùng. Khi ta tác động vào đầu ngón tay và gốc ngón tay cũng là gián tiếp kích hoạt sự thu, xả ở những huyệt tương ứng như Bách hội ở đỉnh đầu, Hội âm và Trường cường ở vùng xương cùng. Sự kích hoạt của ấn có tác dụng lợi dụng thiên khí và địa khí làm mạnh dòng chảy của kinh mạch, qua đó có thể khai thông một đường kinh, một huyệt vị hoặc tăng cường nội khí trong cơ thể. Ngoài ra khi Nhâm Đốc đã được thông, động tác bắt ấn mỗi lần tập sẽ rút ngắn thời gian sinh khí và tăng cường chân khí để sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau.

    NHỮNG ĐỐI ỨNG KHÁC NHAU GIỮA NAM VÀ NỮ TRÊN LÒNG BÀN TAY

    Do những dị biệt về tính âm dương giữa nam và nữ, nam thuộc dương và nữ thuộc âm, nên vị trí tương ứng giữa hai huyệt Trường cường và Hội âm trên hai bàn tay phải và trái cũng tương phản nhau.

    Ở nam, thiên khí từ đỉnh đầu qua nửa bên phải cơ thể xuống chân phải, địa khí theo chân trái đi lên, qua nửa bên trái cơ thể chạy lên đầu. Phần gốc các ngón tay thuộc tay trái ứng với huyệt Trường cường, phần gốc các ngón tay thuộc tay phải ứng với Hội âm. Ở nữ, thiên khí từ đỉnh đầu qua nửa bên trái cơ thể xuống chân trái, địa khí theo chân phải qua nửa bên phải cơ thể chạy lên đầu. Phần gốc các ngón tay thuộc tay phải của người nữ ứng với huyệt Trường cường, phần gốc các ngón tay trái ứng với huyệt Hội âm.

    Sự khác biệt trên cần được lưu ý để không tác động nhầm lẫn vào Trường cường. Trường cường là gốc của chân Hỏa, chỉ được kích hoạt khi cần thiết và có giới hạn. Trường cường chỉ nên được khai mở và phát triển đồng bộ với sự phát triển của Nhâm Đốc và hệ kinh mạch chung. Trên thực tế, khi Nhâm Đốc đã được khai thông, chỉ cần tác động vào các đầu ngón tay, thiên khí sẽ tràn xuống theo mạch Nhâm. Khi đến cuối mạch Nhâm, tự khắc sẽ kích hoạt Trường cường đưa chân hỏa lên mạch Đốc, tuần hoàn thành một vòng Tiểu châu thiên mà không nhất thiết phải kích hoạt vào gốc các ngón tay.

    Ngoài ra, việc nắm vững quy luật thăng giáng ở mỗi bên, bên phải hoặc bên trái còn có thể vận dụng để phát triển thành vòng Đại châu thiên bằng cách hít vào từ đỉnh đầu theo mạch Nhâm xuống chân phải (nam), và thở ra từ chân trái đi lên theo mạch Đốc đến tận đỉnh đầu. Do đó có cách nói hít một hơi chân khí từ Bách hội thông suốt đến đầu ngón chân cái, hoặc ngược lại từ đầu ngón chân cái lên đến tận đỉnh đầu.

    MỘT VÀI ẤN TIÊU BIỂU

    Đầu ngón cái chạm nhẹ đầu ngón trỏ ở cả hai bàn tay. Ngón trỏ là ngón ở gần ngón cái nhất. Do đó chỉ cần cong nhẹ hai ngón để hai đầu ngón chạm nhau là đủ để kết thành ấn, dễ tạo tình trạng buông lỏng cơ hai bàn tay hơn so với động tác đưa đầu ngón tay cái xa hơn để chạm với những đầu ngón khác như ngón giữa và áp út. Nói chung giống như các ấn tác động vào đầu ngón tay khác, ấn này có thể bổ sung kinh khí cho những đường kinh dương vì Bách hội là huyệt hội của những đường kinh Dương và mạch Đốc. Ngoài ra kèm theo động tác đầu lưỡi chạm nướu răng trên để thông Nhâm Đốc, thiên khí từ Bách hội cũng sẽ tràn xuống mạch Nhâm là bể chứa của các kinh Âm. Do đó ấn có tác dụng vào cả hai mạch Nhâm Đốc để tăng cường nội khí. (Hình 1)

    Đầu ngón cái tay phải chạm đầu ngón áp út. Đầu ngón cái tay trái chạm đầu ngón giữa. Bên cạnh hiệu ứng chung thu Thiên khí và giáng khí, ấn này kích hoạt trực tiếp vào huyệt Quan xung ở gốc móng ngón tay áp út, Tĩnh huyệt của kinh Thiếu dương Đởm và Tam tiêu và huyệt Trung xung ở đầu móng ngón tay giữa, Tĩnh huyệt của kinh Quyết âm can & Tâm bào lạc. Do đó ấn có tác dụng rất tốt trong việc sơ tiết Can khí, thư giải khí uất trong những chứng bệnh do căng thẳng tâm lý lâu ngày làm rối loạn thần kinh giao cảm, dẫn đến nhức đầu, mất ngủ, đau cơ, hay cáu gắt, suy nhược thần kinh, rối loạn kinh nguyệt, rối loạn tiêu hóa…(Hình 2).

    Hai bàn tay đan chéo nhau sát tận gốc các ngón tay đặt trước bụng dưới, lòng bàn tay để ngửa, hai đầu ngón tay cái chạm nhau. Các ngón tay chạm nhau ở sát phần gốc và lòng bàn tay để ngửa đã tác động vào các kinh Âm và có tác dụng thăng khí. Đây là một trong những ấn thường được sử dụng trong khi tĩnh tọa. Ấn có công năng thu âm khí và hóa khí. Huyệt Hội âm sẽ được kích hoạt, mạch Nhâm sẽ đi lên từ Hội âm, hướng năng lực tính dục thăng hoa lên phía trên để tái bổ sung cho cơ thể (Hình 3).

    Đầu ngón cái tay phải chạm đầu ngón áp út tay phải. Đầu ngón cái tay trái chạm gốc ngón áp út tay trái (nam). Ấn này phối hợp giữa Thiên khí từ Bách hội giáng xuống theo mạch Nhâm và chơn Hỏa thăng lên từ Trường cường trên mạch Đốc, một lên một xuống nối thành vòng Tiểu châu thiên. Vì là ấn kích hoạt chơn Hỏa nên chỉ sử dụng giới hạn trong vài phút hoặc vài chục vòng Tiểu châu thiên trước khi tĩnh tọa hay chuyển sang các ấn bình thường ở đầu các ngón tay (Hình 4).

    Đầu ngón tay cái chạm gốc ngón tay áp út, bao các ngón còn lại chung quanh ngón cái và nắm chặt thành quyền. Hai bàn tay giống nhau. Ở ấn này, đầu ngón cái chạm gốc ngón áp út ở cả hai tay đã kích hoạt Hội âm và Trường cường, động tác nắm các ngón tay thành quyền quanh ngón cái có tác dụng tập trung nội khí vào hai trục trung tâm, tức hai mạch Nhâm Đốc nên là một ấn tăng cường chân khí khá mạnh. Ấn có công năng làm ấm người, tăng sự can đảm, tăng cường chính khí để chống lại tà khí nên thường được gọi là Kim cang quyền ấn. Có lẽ đây là lý do khiến dân gian có tập tục nắm chặt ngón tay cái khi cảm thấy sợ sệt, mất bình tĩnh hoặc ban đêm phải đi qua những nơi tối tăm, lạnh lẽo (Hình 5).

    Áp hai bàn tay vào nhau, đan chéo hai ngón áp út và ngón út của hai bàn tay, hai ngón tay giữa thẳng lên, hai đầu ngón giữa áp vào nhau, hai ngón tay trỏ chạm vào lưng lóng giữa của ngón tay giữa cùng bên, hai đầu ngón cái cùng áp lên lóng giữa của ngón tay áp út bên phải. Ở ấn này, hai ngón trỏ tác động vào chỗ giao liên của hai lóng đầu và lóng giữa của ngón giữa, và hai đầu ngón cái tác động vào lóng giữa ngón áp út phải nên có tác dụng tập trung chơn khí vào khu vực giao tiếp giữa trung tiêu và thượng tiêu. Trên thực tế, khi bắt ấn này, nội khí toàn thân sẽ hướng về huyệt Cưu vĩ. Cưu vĩ nằm trên mạch Nhâm, phía dưới chỗ gặp nhau của hai bờ sườn, tương ứng với Luân xa 4 của khí công Ấn Độ. Nơi đây có một biệt lạc thông với mạch Đốc. Cưu vĩ là mộ huyệt của Tâm. Trong châm cứu học, Cưu vĩ có tác dụng trấn kinh, định thần, thư thái lồng ngực. Do đó ấn này có tên gọi là ấn định tâm (Hình 6).

    Tóm lại có thể nói ấn bao gồm nhiều hình thức, nhiều tư thế khác nhau của những ngón tay, riêng lẻ hoặc phối hợp cả hai bàn tay, nhằm điều chỉnh khí hóa, định tâm an thần hoặc tăng cường chân khí.

    BẮT ẤN (Mudra – Body posture :Thân ấn)

    Ấn là gì ?

    Là các tư thế khác nhau của cơ thể có nghĩa gốc là thư giãn. Nó có nguồn gốc từ Yoga. Đó là một loại yoga dễ hiểu và làm được dễ dàng. Nó vận hành giống như các nguyên tắc bấm huyệt và châm cứu. Nó dễ đến độ trẻ con cũng có thể làm được mà không mấy khó khăn.

    Chỉ dẫn : Trước khi bắt ấn, hãy thở sâu, thư giãn tinh thần, ngồi xếp bằng hoặc ngồi bán già hoặc kiết già để bắt đầu bắt ấn.

    Ấn Ling

    Đan chéo các ngón tay lại với nhau và để ngón tay cái vào phía bên trong và giơ ngón cái lên dựng đứng.

    Công dụng : rất có ích để chữa bệnh ho.

    Ấn Shunya :

    Gập ngón tay giữa lại nhấn ngón cái lên ngón giữa (bằng lòng của ngón cái) theo như hình vẽ, ba ngón còn lại thẳng.

    Công dụng : rất có ích cho việc chữa các bệnh ở tai. Chúng ta nên làm ấn này từ 4 đến 5 phút nếu có vấn đề về tai : điếc , chảy nước tai

    Ấn Prithvi :

    Đè ngón tay cái lên ngón út, còn các ngón khác giữ thẳng.

    Công dụng : Làm tăng sức mạnh cho cơ thể và tống khứ mọi sự mệt mỏi, uể oải ra khỏi cơ thể.

    Ấn Surya :

    Cong ngón nhẫn vào lòng bàn tay và đè ngón cái lên như hình vẽ (chạm vào móng của ngón đeo nhẫn bằng lòng ngón tay cái), ba ngón còn lại thẳng.

    Lợi ích : Tống khứ mỡ thừa ra khỏi cơ thể.

    Ấn Gyan :

    Cong ngón trỏ và ngón cái chạm vào nhau, các ngón khác thẳng

    Công dụng : rất có ích trong việc chữa bệnh thần kinh rối loạn, mất ngủ (ngủ quá nhiều hoặc ít ngủ). Kém trí nhớ, người có tính nóng nảy. Thực hiện ít nhất 30 phút mỗI ngày.

    Ấn Varun :

    Ngón cái và ngọn giữa chạm đầu vào với nhau, giữ các ngón khác thẳng

    Công dụng : rất hữu dụng trong việc chữa trị bệnh thiếu máu (ít hồng huyết cầu) và các bệnh ngoài da.

    Ấn Pran :

    Cong hai ngón út và ngón nhẫn lại và cho chạm vào ngón cái. Các ngón khác thẳng

    Công dụng : Để làm giãm bệnh cận thị cho mắt và giải quyết các vấn đề khác về mắt.

    Ấn Vaayu :

    Cong ngón trỏ và đè ngón cái lên lưng ngón trỏ như hình vẽ (chạm lên lưng trên móng của ngón trỏ bằng lòng ngón tay cái) . Giữ ba ngón kia thẳng

    Công dụng : Rất có ích cho việc cho việc chữa trị các bệnh về khớp. Kết hợp cùng với ấn Pran lại càng tốt hơn.

     

     

    Read more »
  • Đức Phật Bất Động - A Súc Bệ - Akshobya Buddha

     

    Đức Phật Bất Động - A Súc Bệ - Akshobya Buddha

    PHÁP HỘI BẤT ĐỘNG NHƯ LAI PHẨM THỌ KÝ TRANG NGHIÊM - THỨ NHỨ

    Như vậy, tôi nghe một lúc đức Phật ở thành Vương Xá tại núi Kỳ Xà Quật cùng một ngàn hai trăm năm mươi chúng đại Tỳ kheo câu hội, chúng đại Tỳ kheo này đều là bực A La Hán mà mọi người đều quen biết.

    Các Ngài ấy đã hết những phiền não, tâm huệ giải thoát tự tại vô ngại dường như đại Long, việc làm đã xong vứt bỏ gánh nặng sanh tử, đã được lợi ích chính mình, hết những nghiệp kết, thông đạt Chánh giác đến bờ kia, riêng Ngài A Nan còn ở bực hữu học.

    Lúc ấy Tôn giả Xá Lợi Phất từ chỗ ngồi đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất, chắp tay hướng lên đức Phật mà bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Thuở xưa chư đại Bồ tát phát xu Vô thượng Bồ đề thế nào? Tu hành khắp các hạnh thanh tịnh, mặc giáp tinh tiến công đức trang nghiêm thế nào? Chư đại Bồ tát ấy do mặc áo giáp nên được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.

    Bạch đức Thế Tôn! Hạnh nguyện và sự phát tâm ấy, xin đấng đại từ khai thị diễn thuyết cho.

    Bạch đức Thế Tôn! Chư đại Bồ tát ấy vì lợi ích an lạc chư Thiên và nhơn dân mà chuyên cần tu tập khắp các hạnh thanh tịnh mặc giáp tinh tiến, do đó mà lợi ích an lạc tất cả chúng sanh, và sẽ làm ánh sáng Phật pháp lớn cho chư Bồ tát hiện tại và vị lai, vì họ tán dương công đức chứng được thiện căn vậy.

    Chư Bồ tát nghe pháp này rồi chuyên cần tu học chân như pháp tánh sẽ được Vô thượng Bồ đề.”

    Đức Phật phán dạy: “Lành thay! Lành thay! Này Xá Lợi Phất! Ông có thể thưa hỏi đức Như Lai về tịnh hạnh quang minh, giáp trụ rộng lớn công đức sâu dày của chư đại Bồ tát thuở quá khứ để nhiếp thọ chư đại Bồ tát vị lai.

    Lắng nghe, lắng nghe, suy gẫm đúng lý, ta sẽ vì ông mà nói.”

    Ngài Xá Lợi Phất thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi xin muốn được nghe.”

    Đức Phật phán dạy: “Này Xá Lợi Phất! Từ đây qua phương Đông, quá một ngàn thế giới có quốc độ tên là Diệu Hỷ. Thuở xưa có đức Phật hiệu Quảng Mục Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh giác xuất hiện trong nước Diệu Hỷ ấy, vì chư đại Bồ tát nói pháp vi diệu, từ pháp lục Ba la mật làm đầu.

    Lúc ấy có một Tỳ kheo từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất, chắp tay hướng lên đức Quảng Mục Như Lai mà bạch rằng:

    Bạch đức Thế Tôn! Như lời đức Phật đã dạy về pháp Bồ tát xin chí nguyện tu hành.

    Đức Quảng Mục Như Lai nói:

    Này Tỳ kheo! Nay ông cần phải biết giáo pháp Bồ tát rất khó tu tập.

    Tại sao vậy?

    Vì Bồ tát đối với chúng sanh chẳng có lòng sân hại vậy.

    Tỳ kheo ấy bạch:

    Bạch đức Thế Tôn! Từ hôm nay tôi phát tâm Vô thượng Bồ đề, dùng lòng không dua dối, lời nói chân thiệt chẳng đổi khác để cầu Nhứt thiết chủng trí. Từ nay cho đến chừng nào chưa được Vô thượng Bồ đề, đối với tất cả chúng sanh nếu tôi sanh lòng sân hại thì chính là trái bỏ chư Phật Như Lai hiện đương thuyết pháp trong vô lượng vô số vô biên thế giới.

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm Nhứt thiết chủng trí này hồi hướng như vậy. Nếu giữa chừng tôi lại phát tâm Thanh văn, Duyên giác thì là khi dối tất cả chư Phật.

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm Nhứt thiết chủng trí này hồi hướng như vậy, nhẫn đến chừng nào chưa được Vô thượng Bồ đề, đối với tất cả chúng sanh nếu tôi sanh lòng ái dục sân hại ngu si, hoặc tương ưng với hôn trầm cống cao ác tác, thì là khi dối tất cả Như Lai.

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm Nhứt thiết chủng trí này hồi hướng như vậy, nhẫn đến chừng nào chưa được Vô thượng Bồ đề, nếu tôi sanh lòng nghi hoặc, lòng sát hại, lòng trộm cắp, hoặc sanh khởi tà kiến, phi phạm hạnh, vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, tổn hại, thì là khi dối tất cả chư Phật.

    Lúc ấy có Tỳ kheo khác nghĩ rằng vị Bồ tát này do sơ phát tâm mặc áo giáp tinh tiến, đối với tất cả chúng sanh chẳng bị sân hại v.v... làm lay động.

    Nhơn vì có niệm nghĩ ấy nên trong nước Diệu Hỷ đặt hiệu cho Bồ tát ấy là Bất Động.

    Đức Quảng Mục Như Lai thấy Bồ tát ấy được hiệu Bất Động cũng tùy hỷ khen hay.

    Tứ Thiên Vương, Đế Thích, Phạm Vương nghe danh hiệu ấy cũng đều tùy hỷ.

    Này Xá Lợi Phất! Lúc ấy Bồ tát Bất Động ở trước đức Quảng Mục Như Lai bạch rằng:

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm Nhứt thiết chủng trí hồi hướng Vô thượng Bồ đề như vậy. Nhẫn đến chừng nào chưa chứng Vô thượng Bồ đề, chỗ tu hành nếu trái lời ấy thì là khi dối chư Phật Như Lai hiện đương thuyết pháp tại vô lượng vô số thế giới.

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát đại tâm hồi hướng Vô thượng Bồ đề như vậy. Nhẫn đến chừng nào chưa được Vô thượng Bồ đề nếu ở nơi mỗi mỗi lời nói chẳng tương ưng với niệm Phật và Nhứt thiết chủng trí thì là khi dối tất cả chư Phật.

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm hồi hướng như vậy, nhẫn đến chừng nào chưa chứng Vô thượng Bồ đề, nếu đời đời làm người tại gia mà chẳng xuất gia thì là khi dối tất cả chư Phật.

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát đại tâm hồi hướng như vậy, nhẫn đến chừng nào chưa chứng Vô thượng Bồ đề, đời đời xuất gia nếu chẳng khất thực, chẳng một lần ngồi ăn, chẳng ăn tiết giảm, chẳng trì ba y, chẳng đắp y phấn tảo, chẳng theo chỗ mà ngồi, chẳng thường ngồi, chẳng ở A lan nhã, chẳng ở dưới cây, chẳng ngồi chỗ trống, chẳng ở gò mả thì là khi dối tất cả chư Phật.

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm đại Bồ đề này hồi hướng như vậy, nhẫn đến chừng nào chưa được Nhứt thiết chủng trí, nếu tôi chẳng thành tựu biện tài vô ngại thuyết các diệu pháp, thì là khi dối vô số chư Phật.

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm như vậy, nhẫn đến chừng nào chưa được Vô thượng Bồ đề, nếu tôi chẳng an trụ ba oai nghi hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc kinh hành, thì là khi dối vô lượng chư Phật.

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm Vô thượng, nhẫn đến chừng nào chưa được Nhứt thiết chủng trí, nếu đối với chúng sanh tôi phạm tội căn bổn, hoặc nói vọng ngữ và những lời huyên náo thế tục khác, hoặc khởi lòng tồi phục luận thuyết của người khác, thì là khi dối vô số chư Phật.

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm Nhứt thiết chủng trí này an trụ hồi hướng Vô thượng Bồ đề, hoặc có lúc thuyết pháp cho hàng phụ nữ, nếu tôi chẳng khởi cảm tưởng vô thường khổ không vô ngã mà lại nghĩ lấy tướng người nữ và nhe răng cười, thì là khi dối tất cả chư Phật.

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm Nhứt thiết chủng trí hồi hướng an trụ Vô thượng Bồ đề, nếu trong khi thuyết pháp nhìn ngó chỉ trỏ khinh tháo hoặc thấy các Bồ tát khác mà chẳng nghĩ tưởng là bực đại sư, thì là khi dối vô số chư Phật.

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm Nhứt thiết chủng trí hồi hướng Vô thượng Bồ đề, trừ Sa môn đệ tử của chư Phật, nếu tôi ngồi nghe pháp và lễ Sa môn, Bà la môn ngoại đạo, thì là khi dối tất cả chư Phật.

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát đại tâm này nhẫn đến Vô thượng Bồ đề, lúc thật hành tài thí, pháp thí, nếu lòng tôi còn có bỉ thử, với chỗ đáng cúng dường lại sanh lòng giản dị, thì là khi dối tất cả chư Phật.

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm Nhứt thiết chủng trí, nhẫn đến Vô thượng Bồ đề, nếu thấy các người tội phạm sắp bị hình phạt mà chẳng xả thân mạng để cứu hộ họ, thì là khi dối tất cả chư Phật.

    Này Xá Lợi Phất! Lúc Bồ tát Bất Động ấy tu đại hạnh như vậy nhẫn đến chừng nào chưa chứng quả Vô thượng Bồ đề, không một chúng sanh nào sắp bị hình phạt mà chẳng cứu hộ họ.

    Này Xá Lợi Phất! Thuở ấy có một vị Tỳ kheo nghĩ rằng: Đức Như Lai đối với đại hạnh ấy nên tác chứng minh.

    Chư Thiên, Nhơn, A tu la v.v... kia cũng nên chứng kiến.

    Này Xá Lợi Phất! Lúc ấy đức Quảng Mục Như Lai biết tâm niệm của Tỳ kheo ấy liền phán rằng: Đúng như vậy, Như Lai Ứng Cúng Chánh đẳng Chánh giác chứng kiến đại hạnh ấy, các thế gian chư Thiên, Nhơn, A tu la v.v... cũng chứng kiến. Nếu có đại Bồ tát nào mặc áo giáp đại tinh tiến như vậy xu hướng Vô thượng Bồ đề, đều sẽ thành Phật đạo.

    Này Xá Lợi Phất! Lúc ấy Bất Động Bồ tát bạch đức Quảng Mục Như Lai rằng:

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm Nhứt thiết chủng trí này, nhẫn đến chừng nào chưa chứng được Vô thượng Bồ đề, giữa chừng nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di nào phạm tội, mà tôi đi nói tội phạm của họ thì là trái bỏ chư Phật Như Lai.

    Bạch đức Thế Tôn! Tôi tu công hạnh ấy nguyện thành Vô thượng Bồ đề, làm cho cõi nước tôi rộng lớn thanh tịnh, chúng Thanh văn đều không có lầm lỗi.

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm Nhứt thiết chủng trí, nhẫn đến chừng nào tôi chưa chứng quả Vô thượng Bồ đề, nếu sanh tưởng niệm dâm dục tiết ra bất tịnh, cho đến trong lúc chiêm bao, thì là trái bỏ chư Phật Như Lai vậy.

     

    Bạch đức Thế Tôn! Tôi tu đại hạnh này chứng Vô thượng Chánh giác, khiến trong nước tôi, những Bồ tát xuất gia trong lúc chiêm bao cũng không tưởng dục tiết ra bất tịnh.

     

    Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi phát tâm Nhứt thiết chủng trí nhẫn đến chứng được Vô thượng Bồ đề, trong nước tôi, nếu hàng nữ nhơn còn có lỗi lầm của người nữ như các nước khác thì tôi chẳng ở ngôi Chánh giác. Nếu ở ngôi Chánh giác thì là khi dối tất cả chư Phật.

    Này Xá Lợi Phất! Nếu Bồ tát do công năng đại nguyện ấy thành tựu thì tùy niệm xuất sanh các pháp như vậy có thể thuyết pháp cho tất cả chúng sanh.

    Này Xá Lợi Phất! Thuở ấy có Tỳ kheo thưa Bất Động Bồ tát rằng: Bạch Đại sĩ! Nếu đây là thành tâm bất thối chí ngôn không hư vọng, thì xin Ngài dùng ngón chân lay động mặt đất.

    Bất Động Bồ tát nương oai thần của Phật và sức bổn nguyện thiện căn làm cho mặt đất Diệu Hỷ ấy chấn động sáu cách. Những là chấn, đại chấn và biến chấn, động, đại động và biến động.

    Này Xá Lợi Phất! Đúng như lời phát nguyện thuở xưa, Bồ tát Bất Động nay đã hoàn thành tất cả công hạnh.

    Vì thế nên có Bồ tát nào muốn chứng Vô thượng Bồ đề thì nên học theo Bất Động Bồ tát. Nếu có Bồ tát nào khéo tu những hạnh nguyện ấy thì sẽ được như quốc độ Diệu Hỷ ấy. Và có thể mau chứng Vô thượng Bồ đề.”

    Ngài Xá Lợi Phất bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Lúc Bất Động Bồ tát mới phát tâm có bao nhiêu Thiên tử đến dự hội?”

    Đức Phật phán: “Này Xá Lợi Phất! Thuở ấy trong Đại Thiên thế giới có bao nhiêu Tứ Đại Thiên Vương, và cùng Đế Thích, Ma vương, Phạm Thiên Vương v.v... đều hoan hỷ chắp tay xướng lên rằng: Những đại nguyện công đức được nghe hôm nay là những điều mà từ trước chúng tôi chưa từng nghe. Lúc Bất Động Bồ tát thành Phật, trong quốc độ của Ngài, chẳng phải hạng thiện căn hạ liệt mà được làm chúng sanh ở nước ấy.”

    Ngài Xá Lợi Phất bạch: “Bạch đức Thế Tôn! Như lời đức Phật đã dạy, áo giáp công đức của Bất Động Bồ tát mặc, là chỗ chưa từng có ở chư Bồ tát khác.”

    Đức Phật phán: “Này Xá Lợi Phất! Đúng như vậy. Chư Bồ tát khác mặc áo giáp lớn phát xu Vô thượng Bồ đề, không có như Bất Động Đại Bồ tát.

    Này Xá Lợi Phất! Công đức của Bất Động Bồ tát thành tựu, tất cả Bồ tát trong kiếp Hiền này thảy đều không có.

    Này Xá Lợi Phất! Thuở ấy đức Quảng Mục Như Lai thọ ký Vô thượng Bồ đề cho Bất Động Bồ tát mà dạy rằng:

    Này Thiện nam tử! Ở đời sau này, ông sẽ làm Phật hiệu là Bất Động Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.

    Đức Quảng Mục Như Lai thọ ký Vô thượng Bồ đề cho Bất Động Bồ tát, như đức Nhiên Đăng Phật thọ ký cho ta vậy.

    Này Xá Lợi Phất! Lúc Bất Động Bồ tát được thọ ký có quang minh lớn chiếu khắp thế giới, đại địa chấn động sáu cách. Như ngày trước lúc ta chứng Nhứt thiết chủng trí, cõi Đại Thiên này chấn động sáu cách.

    Lại này Xá Lợi Phất! Thuở ấy tất cả cỏ cây lùm rừng đều ngã ngọn hướng về phía Bất Động Bồ tát. Cũng như ngày trước lúc ta chứng quả Bồ đề, tất cả cỏ cây đều ngã hướng về ta vậy.

    Lại này Xá Lợi Phất! Lúc Bất Động Bồ tát được thọ ký, ở quốc độ Diệu Hỷ ấy có bao nhiêu hàng Thiên, Long, Dạ xoa, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, tất cả đều chắp tay đảnh lễ Bất Động Bồ tát. Như lúc ta chứng quả Vô thượng Bồ đề trong cõi này, tất cả hàng Thiên, Long Bát bộ đều chắp tay đảnh lễ ta vậy.

    Lại này Xá Lợi Phất! Lúc Bất Động Bồ tát được thọ ký, trong nước Diệu Hỷ ấy, người nữ mang thai đều được an lành, người đui được thấy, người điếc được nghe, không khác ngày ta thành Phật vậy.

    Lại này Xá Lợi Phất! Lúc Bất Động Bồ tát phát nguyện xu hướng Vô thượng Bồ đề, và lúc đức Quảng Mục Như Lai thọ ký, trong hai lúc ấy tất cả chúng sanh đều không có hoạnh tử, cũng giống như lúc ta chứng Nhứt thiết chủng trí vậy.

    Lại này Xá Lợi Phất! Lúc Bất Động Bồ tát được thọ ký, có hương duyệt ý thơm khắp thế giới, như ngày trước lúc ta chứng đại Bồ đề có hương thích ý thơm ngát khắp mọi nơi vậy.”

    Ngài Xá Lợi Phất bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Bất Động Đại Bồ tát ấy thành tựu những công đức rộng lớn như vậy.”

    Đức Phật phán: “Này Xá Lợi Phất! Được đức Quảng Mục Như Lai thọ ký, Bất Động Bồ tát ấy chẳng phải chỉ có những công đức ấy, lại còn có thể được vô biên công đức Ba la mật.

    Lại này Xá Lợi Phất! Lúc Bất Động Bồ tát được thọ ký, thế gian, chư Thiên, nhơn dân, A tu la, v.v..., lòng họ đều vui mừng nhu thuận hiền lành cũng như lúc ta thành đạo Bồ đề chư Thiên, nhơn dân v.v... đều vui mừng vậy.

    Lại này Xá Lợi Phất! Lúc Bất Động Bồ tát được thọ ký, có đại Dạ xoa tay cầm Kim cang hầu hạ Bồ tát, như ta không khác.

    Lại này Xá Lợi Phất! Lúc Bất Động Bồ tát được thọ ký, chư Thiên và nhơn dân, rải những hoa đẹp và hương nước hương bột lên trên Bồ tát, như lúc ta chứng đạo Bồ đề vậy.

    Lại này Xá Lợi Phất! Lúc Bất Động Bồ tát được thọ ký, có chư Thiên và nhơn dân đều hai mươi ức phát tâm Vô thượng Bồ đề được đức Quảng Mục Như Lai thọ ký thành Phật.

    Lại này Xá Lợi Phất! Lúc Bất Động Bồ tát được thọ ký, những hoa sen xanh, hoa sen vàng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng nở khắp đại địa, cũng như Bồ đề đạo tràng của ta hoa nở trùm khắp.

    Lại này Xá Lợi Phất! Lúc Bất Động Bồ tát được thọ ký, có vô lượng chư Thiên ở trên hư không rải những Thiên y choàng trên mình Bồ tát và đồng xướng rằng cầu nguyện Bồ tát này mau chứng Vô thượng Bồ đề, như lúc ta được Nhứt thiết chủng trí chư Thiên rải y cúng dường vậy.

    Lại này Xá Lợi Phất! Thuở ấy thế gian, chư Thiên, nhơn dân, A tu la, v.v... thấy Bất Động Bồ tát được thọ ký Vô thượng Bồ đề đều rất vui mừng, còn hơn là người đời cha mẹ sanh con trai. Cũng như lúc ta chứng Nhứt thiết chủng trí, chư Thiên và nhơn dân v.v.. đều rất vui mừng vậy.

    Lại này Xá Lợi Phất! Khắp cõi nước Diệu Hỷ ấy, bao nhiêu Thiên nhơn, do thần lực của đức Quảng Mục Như Lai, đều nghe Bất Động Bồ tát được thọ ký, họ cúng dường nhiều thứ y phục tốt và món ăn ngon lành, như mọi người cúng dường Tỳ kheo lúc tháng ca đề đã mãn vậy.

    Lại này Xá Lợi Phất! Lúc Bất Động Bồ tát được thọ ký, chúng sanh ở dục giới mang những món ăn ngon và tấu nhạc trời để dâng cúng dường.

    Này Xá Lợi Phất! Bất Động Bồ tát được thọ ký rồi có nhiều công đức thành tựu như vậy.”

    Tôn giả Xá Lợi Phất bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh đẳng Chánh giác rất là hy hữu, khéo nói cảnh giới của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, cũng vậy, cảnh giới thiền định, cảnh giới chư Long chẳng thể nghĩ bàn, các nghiệp nhơn và quả báo chẳng thể nghĩ bàn!

    Bạch đức Thế Tôn! Bất Động Bồ tát ấy ở lúc sơ phát tâm nhiếp thọ công đức thù thắng như vậy, được đức Quảng Mục Như Lai thọ ký, lại hoàn thành những công đức lớn chẳng thể nghĩ bàn ấy.”

    Đức Phật phán: “Đúng như vậy. Như lời ông nói đó Xá Lợi Phất!”

    Bấy giờ Ngài A Nan thưa Tôn giả Xá Lợi Phất rằng: “Bạch Đại đức! Bồ tát sơ phát tâm ấy mặc áo giáp tinh tiến, đức Thế Tôn lược nói phần ít công đức vẫn còn chưa hết.”

    Ngài Xá Lợi Phất nói: “Đúng như vậy. Đức Như Lai chỉ lược nói thôi. Tại sao vậy? Bồ tát ấy an trụ ở sơ phát tâm mặc áo giáp tinh tiến thành tựu vô lượng công đức chẳng thể nghĩ bàn.”

    Tôn giả Xá Lợi Phất lại bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Nay đã lược khen Bất Động Bồ tát mặc áo giáp tinh tiến có công đức thù thắng rồi, cúi mong đức Thế Tôn vì nhiếp thọ chư Bồ tát hiện tại và vị lai mà tuyên nói rộng cho.”

    Đức Phật phán: “Này Xá Lợi Phất! Bất Động Bồ tát lúc sơ phát tâm mặc áo giáp tinh tiến có công đức chẳng thể nghĩ bàn như vậy, nay ta vì ông mà nói phần ít. Lắng nghe lắng nghe và khéo suy gẫm đó.”

    Tôn giả Xá Lợi Phất bạch: “Bạch đức Thế Tôn! chúng tôi muốn xin được nghe.”

    Đức Phật phán: “Này Xá Lợi Phất! Bất Động Bồ tát phát nguyện như vầy: Giả sử hư không có đổi khác, hoằng thệ của tôi trọn chẳng thối chuyển. Do chí nguyện ấy nên bao nhiêu công đức, Bất Động Bồ tát đều sớm thành tựu cả.

    Này Xá Lợi Phất! Ta chẳng thấy chư Bồ tát ở kiếp Hiền này, có ai mặc áo giáp tinh tiến như Bất Động Bồ tát.

    Này Xá Lợi Phất! Công hạnh tu hành của Bửu Tràng Bồ tát so với Bất Động Bồ tát trong một ít phần nhẫn đến phần ca la cũng chẳng bằng một.

    Này Xá Lợi Phất! Bất Động Bồ tát mặc áo giáp tinh tiến, vô lượng Bồ tát khác đều không bằng được.

    Này Xá Lợi Phất! Bất Động Bồ tát do thệ nguyện kiên cố ấy mà chứng Vô thượng Bồ đề nay hiện ở thế giới Diệu Hỷ hiệu là Bất Động Như Lai Ứng Cúng Chánh đẳng Chánh giác.

    Lại này Xá Lợi Phất! Bất Động Như Lai lúc tu hạnh Bồ tát thuở xưa, có ai đến xin đầu mắt tủy não tay chân đều vui vẻ xả cho chẳng trái ý một ai.

    Này Xá Lợi Phất! Bất Động Như Lai từ khi sơ phát tâm đến lúc chưa chứng Vô thượng Bồ đề, do đại nguyện như vậy nên không mang những bệnh tật phong nhiệt đàm đau đầu v.v...

    Này Xá Lợi Phất! Bất Động Như Lai thuở xưa lúc hành Bồ tát đạo được những pháp chưa từng có như vậy.

    Này Xá Lợi Phất! Vì thuở xưa đời đời sanh ra, Ngài cúng dường phụng thờ chư Phật, ở chỗ chư Phật ấy Ngài thường tu phạm hạnh, vì thế nên đời nào cũng lại lấy tên là Bất Động cả, đời nào sanh ở cõi nước nào cũng nhằm đời có Phật, thường thấy Phật.

    Này Xá Lợi Phất! Ví như Quán Đảnh Đại vương dòng Sát Đế Lợi ở trong nước được tự tại hơn cả, từ một cung điện sang qua một cung điện, chân vua chẳng đi trên đất, hưởng thọ vui ngũ dục.

    Bất Động Bồ tát lúc tu Bồ tát đạo, đời đời thường tu phạm hạnh, cúng dường chư Phật. Ngài thuyết pháp chỉ dạy đều tương ưng với Ba la mật, ít có tương ưng với Thanh văn địa, có thể làm cho chư Bồ tát thẳng vào an trụ Vô thượng Bồ đề. Do vì Ngài phát tâm an trụ Vô thượng Bồ đề như vậy nên được công đức lợi ích rộng lớn như vậy.

    Bất Động Bồ tát lại đem căn lành pháp thí hồi hướng Vô thượng Bồ đề phát nguyện như vầy: Lúc tôi thành Phật, tất cả Bồ tát trong nước tôi, do oai lực của Phật, nghe tôi thuyết pháp đều thọ trì đọc tụng hay phụng sự chư Phật Như Lai, từ một cõi Phật đến một cõi Phật, nhẫn đến chừng nào chưa chứng Vô thượng Bồ đề, thường chẳng xa rời chư Phật Thế Tôn, cũng như tôi vậy, chỉ trừ người đến cung Trời Đâu suất ở ngôi bổ xứ.

    Tại sao vậy?

    Vì pháp của Bồ tát tự nhiên như vậy.

    Nếu từ cung Trời Đâu suất giáng thần ở thai mẹ, lúc từ hông hữu sanh ra thì đại địa chấn động.

    Này Xá Lợi Phất! Tối hậu thân Bồ tát có thoại tướng như vậy.

    Này Xá Lợi Phất! Như Tỳ kheo đủ thần túc thông vào trong cung điện như ở hư không, oai nghi đứng ngồi đều không chướng ngại. Cũng vậy, tối hậu thân Bồ tát dầu ở thai mẹ mà như ở hư không, tất cả thứ bất tịnh nhơ uế trong thai bào chẳng nhiễm ô được, mùi hôi cũng chẳng nhiễm đến.

    Này Xá Lợi Phất! Bất Động Như Lai lúc hành Bồ tát đạo thuở xưa phát nguyện như vầy: Nếu tôi thành Phật, trong nước tôi những người hành Bồ tát thừa và những người hành Thanh văn thừa đều dứt hết ma nghiệp. Các ma chúng chẳng có được dịp dễ, như tôi lúc hành Bồ tát đạo dứt tất cả ma nghiệp, chư Bồ tát ấy nhẫn đến chưa thành những công đức lớn, thường siêng nhiếp thọ tu hành Bồ đề hạnh.

    Này Xá Lợi Phất! Bất Động Như Lai lúc hành Bồ tát đạo thuở xưa, khi diễn thuyết các pháp và lúc lắng nghe pháp, thân và tâm của Ngài chẳng biết mỏi mệt.

    Tại sao vậy? Vì lúc sơ phát tâm hành Bồ tát đạo, Ngài được oai lực pháp thân vậy.

    Này Xá Lợi Phất! Bất Động Như Lai lúc hành Bồ tát đạo phát nguyện như vầy: Lúc tôi thành Phật, trong nước tôi, chư Bồ tát đều được pháp thân viên mãn như tôi không khác.”

     

     

    Read more »
RSS