Niệm Phật Đường
Welcome
Login / Register

Tantric scriptures - Mật Giáo


  • Năm Phương Pháp Thực Hành TÂM GIÁC NGỘ

    NĂM SỰ TU TẬP CHO TÂM GIÁC NGỘ KIÊN QUYẾT

    Chúng ta đang thảo luận về tâm giác ngộ và một vị Bồ tát có nghĩa là gì, và chúng ta đã thấy rằng chỗ nào để thọ giới Bồ tát có trong sự tiến bộ của việc phát triển tâm giác ngộ, và những giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ. Và điều thật sự quan trọng là thấu hiểu vai trò của giới nguyện Bồ tát và khi nào chúng ta thật sự tiếp nhận các giới ấy. Nhiều người trong chúng ta đã thọ giới có hơi hấp tấp, khi chúng ta chưa thật sự phát triển tròn vẹn ngay cả giai tầng sơ khai của tâm giác ngộ. Nhưng tuy thế, ngay cả với một sự thấu hiểu giới hạn về tâm giác ngộ và không thật sự nghĩ về tất cả mọi người một cách chân thành, thì việc cố gắng để tuân theo những hướng dẫn của giới Bồ tát là rất lợi lạc. Nhưng nếu chúng ta thọ giới Bồ tát, thì chúng ta cần tiếp tục hành động trong việc cải thiện thế hệ của chúng ta và sự phát triển của tâm giác ngộ, và không bao giờ tầm thường hóa những gì thật sự liên hệ đến thể trạng của tâm giác ngộ. Bởi vì nó không chỉ bắt đầu hướng đến tất cả mọi người, một cách bình đẳng, rộng lớn vô biên, mà cũng là hướng đến Giác Ngộ - với sự Giác Ngộ chưa xảy ra của chính chúng ta - nhưng sự Giác Ngộ, là một sự thành tựu rộng lớn bao la, mà chúng ta cần có một loại nhận thức chính xác nào đó.

    Bây giờ, khi nào chúng ta thật sự tiếp nhận giới Bồ tát là một câu hỏi. Hay chúng thọ giới như thế nào? Chúng ta thọ giới hoặc là trong một buổi lễ đặc thù cho việc truyền giới Bồ tát, hay thọ giới Bồ tát như một bộ phận của lễ khai tâm mật tông (hay quán đảnh). Không đi vào chi tiết của những loại quán đảnh, truyền lực, khai tâm, lễ cho phép tiếp theo, và tất cả loại nghi thức mật tông - tất cả đều phải thọ giới Bồ tát. Và những ai liên hệ với hai lớp mật tông cao nhất, cho dù chúng ta nói về truyền thống Nyingma, lớp tantra cao nhất, hay chúng ta đang nói với những truyền thống mới (Gelugpa, Sakya, và Kagyu), cũng đều giống nhau. Và nếu đó là một lễ quán đảnh liên hệ với tantra yoga, thì có giới Bồ tát và giới mật tông tantra. Nếu nó là một lễ quán đảnh liên hệ với tantra hoạt động hay tantra thực hiện, nó cũng có Bồ tát giới. Và  nếu nó ở trong tantra tối thượng của những trường phái mới hay trong mahayoga, auyoga, hay atiyoga (đại toàn thiện) của Nyingma, cũng có giới nguyện Bồ tát và giới nguyện tantra.

    Như Sakya Pandita, một đại sư, đã từng nói rất rõ ràng, "Không thọ giới, thì không có lễ quán đảnh, không có lễ khai tâm." Và để thọ giới, quý vị phải thật sự biết một cách ý thức những gì quý vị đang làm và chấp nhận các giới nguyện một cách ý thức; bằng khác đi thì quý vị không tiếp nhận các giới. Và vì thế nếu trong lễ khai tâm quý vị không có ý tưởng gì về những gì quý vị đang làm, tất cả trong một ngôn ngữ là quý vị không thông hiểu, và chỉ làm theo người nào đó nói với quý vị, "À, thật sự quý vị thọ giới Bồ tát và mật tông tantra." Đừng ngờ nghệch với chính mình. Quý vị không tiếp nhận giới và quý vị không thọ nhận lễ quán đảnh. Quý vị đã ở đấy; quý vị đã tiếp nhận điều thường được gọi ở phương Tây "sự gia hộ của lễ quán đảnh," là điều một cách kỷ thuật hơn sẽ là sự truyền cảm hứng từ việc tham dự lễ ấy, nhưng quý vị không thật sự tiếp nhận lễ quán đảnh vởi vì quý vị đã không thọ giới một cách có ý thức và không tham dự một cách có ý thức trong lễ quán đảnh.

    Bây giờ, nếu chúng ta tham dự lễ quán đảnh trong cách này mà không thật sự biết những gì chúng ta đang làm hay biết những gì đang xảy ra, thế thì mặc dù sự tham dự của chúng ta không khác gì con chó của người Tây Tạng thường được đem theo họ đến lễ quán đảnh - nó cũng không tiếp nhận lễ quán đảnh, bằng cung cách, bằng việc tham dự lễ khai tâm  - tuy thế nếu chúng ta cố gắng để làm những thực hành (trì mật ngôn và quán tưởng và tự tạo sadhana và v.v…) từ lễ quán đảnh, thì tốt thôi cho đến khi chúng ta có lễ khai tâm trọn ven trong tương lai, khi cơ hội đến, tôi sẽ tiếp nhận lễ khai tâm một cách thích đáng. Thế thì tốt thôi. Vấn đề chính là không tự phụ và nghĩ, "Ô tôi đã thành tựu nhiều lắm!" khi thật sự thì không thế.

    Bây giờ đối với việc tiếp nhận các giới nguyện, thật rất cần thiết để có một trình độ nào đó của ba la đề mộc xoa trước. "Giới ba la đề mộc xoa" có nghĩa là giới cho sự giải thoát cá nhân, biệt giải thoát. Điều này hình thành căn bản hay nền tảng của Bồ tát giới. Vậy thì điều này có thể ở tại những giới của cư sĩ, sa di hay sa di ni giới, hay đại giới của tỳ kheo và tỳ kheo ni. Cũng có thức xoa ma na ni giới. Với giới cho cư sĩ, có năm giới; và chúng ta có thể tiếp nhận năm hay bốn hay ba hay hai hay một, không có gì khác biệt - tối thiểu một trình độ nào đấy. Không có bổn phận khi thọ giới cư sĩ chúng ta phải tiếp nhận tất cả năm giới. Điều đó tùy vào chúng ta và nó là quyết định cá nhân của riêng chúng ta. Quý vị không công bố nó cho bất cứ ai kể và vị thầy. Quý vị có thể, nhưng không cần thiết.

    Vậy thì đây là không lấy mạng sống của kẻ khác, không sát sanh; không lấy bất cứ thứ gì không được cho, nói cách khác là không trộm cắp; không nói hay biểu hiện điều gì không thật, nói cách khác là không lừa dối; không nuông chiều trong thái độ tình dục không thích đáng - chữ "không thích đáng" ở đây hơi khó chuyển dịch một cách chính xác, nhưng hãy gọi nó một cách tạm thời - và không sử dụng những chất làm say, liên hệ một cách đặc biệt đến rượu nhưng có thể được mở rộng đến những gì chúng ta có thể gọi đến những thứ tiêu khiển, như thuốc phiện, ma túy, bạch phiến, … Chúng ta gọi trong tiếng Anh là "thuốc tiêu khiển (recreational drugs)", là những thứ hoàn toàn cho sự giải trí chứ không phải là y dược thí dụ cho người bệnh ung thư được cho thuốc giảm đau morphine để đối phó với cơn đau. Chúng ta không liên hệ đến những thứ ấy, hay uống thuốc aspirin cho nhức đầu.

    Bây giờ ở đây không chi tiết trong năm điều này, nhưng Tông Khách Ba viết, trước nhất ngài nói, "Bất cứ khi nào chúng ta đi vào cánh cửa của bất cứ thừa nào trong Phật Giáo" - vậy thì Tiểu Thừa, Đại Thừa hiển giáo hay Đại Thừa mật giáo - "

    Chúng ta cần thiết lập căn bản giới luật của từng thừa tương ứng." Điều ấy đang liên hệ đến giới giải thoát cá nhân của Tiểu Thừa, hay Bồ tát giới của Đại Thừa phổ thông, và giới mật tông của Tantra Yoga tối thượng (Vô thượng du già). Và sau đó ngài tiếp, "Và một cách đặc biệt khi chúng ta đi vào mantra bí mật," đó là mật tông - "rồi thì tâm giác ngộ là điểm cần thiết tối hậu cho tất cho tất cả tâm đạo của Đại Thừa, thì thật rất quan trọng cho điều ấy là vững vàng với Bồ tát giới."

    Vậy thì Tông Khách Ba nhấn mạnh nhu cầu của giới Bồ tát với mật tông. Và Tông Khách Ba cũng tiếp tục và nói (đây là trong Lá Thư Khuyến Tấn Thực Tiển Với Kinh Thừa Và Mật Thừa của ngài), "Những sự thực chứng được thành tựu bằng việc tiếp nhận Bồ tát giới, trong khi đã được truyền thọ giới pháp theo từng trình độ tương ứng với Luật tạng" - nói cách khác hoặc là giới của cư sĩ hay sa di hay đại giới của tỳ kheo nam nữ - "các giới ấy là tốt nhất" - nói cách khác tiếp nhận Bồ tát giới, được căn cứ trên những giới giải thoát cá nhân ấy - "là tốt nhất so với những ai chỉ duy trì Bồ tát giới mà thôi." Nói cách khác quý vị sẽ thành tựu những sự thực chứng vững vàng hơn, thích đáng hơn, cao độ hơn nếu quý vị có một nền tảng vững vàng về giới ba la đề mộc xoa hơn là nếu chỉ có giới Bồ tát mà thôi.

    Tông Khách Ba nói tiếp, "Đây là những gì Đức Phật muốn đề cập khi Ngài nói trong nhiều kinh điển rằng nếu có hai vị Bồ tát bình đẳng trong tất cả mọi sự tôn kính, thì ngoại trừ một người là cư sĩ không có giới giải thoát cá nhân" - nói cách khác, không có giới biệt giải thoát - "và những sự truyền giới khác" - có nghĩa là một trong những trình độ của cư sĩ hay nam nữ tu sĩ, " - thì người với trình độ này của giới (có thọ giới giải thoát cá nhân) - "sẽ là người đáng ca ngợi hơn. Đức Phật đã thiết lập rõ ràng những điểm này trong sự trình bày của Ngài về giới nguyện."

    Okay. Vậy thì chúng ta cần một trình độ nào đó của giới ba la đề mộc xoa trước khi thọ Bồ tát giới, dĩ nhiên thêm nữa để phát triển một trình độ nào đó của tâm giác ngộ. Hãy nhớ rằng Bồ tát giới được tiếp nhận khi chúng ta đã đạt được thể trạng dấn thân của tâm giác ngộ này (hay thành tựu điều này). Chúng ta phải đã phát triển thể trạng nguyện ước hay thể trạng nguyện vọng của tâm giác ngộ.

    Và chúng ta đã thấy rằng tâm giác ngộ nguyện vọng có hai giai tầng: là thể trạng mong ước đơn thuần - chỉ mong ước trở thành một Đức Phật nhằm để làm lợi ích cho chúng sanh; và thể trạng phát nguyện - cam kết - của việc không bao giờ từ bỏ mục tiêu này cho đến khi chúng ta thật sự thành tựu sự Giác Ngộ ấy - Đức Đạt Lai Lạt Ma thường làm điều này, tiến hành một nghi thức bao gồm cả thể trạng chỉ mong ước đơn thuần và thể trạng phát nguyện cam kết, trước khi ngài truyền giới Bồ tát - rồi thì trong mô thức của thể trạng phát nguyện của tâm giác ngộ nguyện vọng, chúng ta thực hiện một sự bảo đảm cố gắng để tuân theo năm loại rèn luyện tu tập.

    Vậy thì điều này có nghĩa là bốn tu tập cho tâm giác ngộ kiên quyết không suy thoái trong kiếp sống này, và một tu tập cho việc không đánh mất tâm giác ngộ kiên quyết trong những kiếp sống tương lai. Điều cuối cùng chi tiết tránh bốn điều và thực hiện bốn điều đối kháng với nó. Điều này có nghĩa là trước khi chúng ta thọ giới Bồ tát, thì chúng ta đã đang tuân theo một loại tu tập nào đó, một loại giới nào đó, không chỉ trong những giới giải thoát cá nhân, mà cũng trong dạng thức của những loại cam kết này, những tu tập này. Thế thì những loại tu tập này là gì?

     Trước nhất, bốn tu tập cho tâm giác ngộ kiên quyết không bị suy thoái trong kiếp sống này. Những gì chúng ta muốn làm là luôn luôn có tâm giác ngộ mạnh mẽ. chúng ta không muốn điều ấy bị yếu đi. Thế thì chúng ta làm cho điều này mạnh mẽ như thế nào?

    1-Thứ nhất là mỗi ngày nhớ những hữu ích và thuận lợi của việc phát triển tâm giác ngộ. Chúng ta có một liệt kê dài những lợi ích này trong chương thứ nhất của Hướng Dẫn Lối Sống Bồ tát (Nhập Bồ tát hạnh) của Tịch Thiên. Nhưng nếu chúng ta đọc một cách rõ ràng thì điều này rất lợi lạc, và ôn lại mỗi ngày. Nhưng ngay cả nếu chúng ta không thật sự đọc những điều này như một phần của sự thực tập hàng ngày, thì chúng ta cũng có thể nghĩ đến những điểm chính, tự nhắc nhở mình. Cách duy nhất chúng ta khả dĩ có thể đạt đến Giác Ngộ là với việc có xu hướng của tâm giác ngộ: "Tôi muốn thành tựu Giác Ngộ, và tôi đang hành động đến việc thành tựu ấy, và tự tin rằng tôi có thể thành tựu Giác Ngộ  và những gì tôi sẽ làm với sự Giác Ngộ là: giúp đở tất cả chúng sanh."

     Và hành động với mục tiêu này thì chúng ta có thể đem đến hạnh phúc cho chính chúng ta- bởi vì chúng ta rõ ràng đang làm việc để vượt thắng những giới hạn của chính chúng ta nếu chúng ta sẽ thành tựu Giác Ngộ - nhưng nếu chúng ta sẽ có thể làm lợi ích và mang hạnh phúc đến cho mọi người. Và nếu chúng ta chỉ nghĩ trong hình thức của giá trị thế gian, như được ca ngợi và cảm kích, và v.v…bởi người khác, như Tịch Thiên nói, "Nếu người nào đó được ca ngợi chỉ vì bố thí một ít thực phẩm cho một vài người đói kém nào đó một lần" - như cho đồ cứu trợ nạn nhân động đất hay điều gì giống như thế - " nếu như vậy là đáng ca ngợi, vậy thì về việc đem đến hạnh phúc cứu kính bất tận đến mọi người trong vũ trụ sẽ tồn tại mãi mãi, và đem đến sự Giác Ngộ cho họ thì thế nào?"

    Nếu chúng ta đang hành động đến Giác Ngộ, thì chúng ta sẽ không chán nản hay mệt mõi (tôi không muốn nói đến điều này ở trình độ thông thường như sự mệt mõi sau một ngày làm việc), nhưng chúng ta sẽ có sức mạnh: "Tôi sẽ đạt đến điều này để hổ trợ mọi người." Điều ấy sẽ cho quý vị một sức mạnh không thể tin nổi trong mọi thời để có thể hành động vì điều ấy. Đó là một sự bảo vệ và đối trị tốt nhất cho việc hành động một cách tiêu cực hay hành động như một kẻ ngốc. "Làm sao tôi có thể hành động như một tên ngốc? Làm sao tôi có thể ích kỷ? Làm sao tôi có thể hành động trong một cách tiêu cực và tổn hại bất cứ người nào nếu tôi thật sự hành động để thành tựu Giác Ngộ để làm lợi ích cho tất cả mọi người?"  Có nhiều và rất nhiều lợi ích, vì thế chúng ta cố gắng để tự nhắc nhở mình mỗi ngày với điều này Tôi muốn nói một cách thật sự, không chỉ là thử. Chúng ta hứa hẹn để làm như vậy, và trên căn bản của sự hứa hẹn ấy chúng ta cố gắng để hành động để làm điều này.

    2- Thứ hai là rèn luyện để tái khẳng định và tăng cường động cơ này bằng việc hồi hướng trái tim chúng ta mỗi ngày, tiếp nhận và phát tâm giác ngộ mỗi ngày, ba lần mỗi sáng, và ba lần mỗi tối. Điều ấy không có nghĩa là chỉ lập lại những câu kệ vô ý thức. Chúng ta có thể trì tụng vô ý thức một câu kệ hoặc là bằng Tạng ngữ hay trong ngôn ngữ của từng dân tộc. Chỉ bởi vì trong ngôn ngữ của riêng từng người không bảo đảm nó sẽ không là vô ý thức. Vô ý thức có  nghĩa là chỉ đọc suông và không thật sự cảm nhận bất cứ gì hay phát sinh bất cứ điều gì trong tâm thức chúng ta ngoại trừ từ ngữ. Như vậy có nghĩa là nghĩ về những lợi ích và sau đó thật sự thâm nhập vào những giai tầng: buông xả, cởi mở đến tất cả mọi người, bình đẳng; mọi người ân cần, như một bà mẹ và những lúc khác, v.v… qua toàn câu. Và sau đó, cách ấy, điều này sẽ củng cố tâm giác ngộ của chúng ta. Nếu chúng ta làm việc này mỗi ngày, tâm giác ngộ kiên quyết của chúng ta sẽ không suy thoái, sẽ không trở thành yếu kém.

    Cho nên mặc dù chúng ta có những sự thực tập nào đó, những câu kệ căn bản nào đó mà chúng ta có thể sử dụng cho việc phát sinh nguyện  ước này, phát tâm giác ngộ này, mà chúng ta có thể trì tụng ba lần buổi sáng và ba lần buổi tối, xin nhớ rằng, chúng ta cần cố gắng để không chỉ là đọc tụng suông vô ý thức. Và đừng tự đùa với chính mình. Điều ấy thật không dễ để thật sự thực hành mỗi buổi sáng và tối. Nó đòi hỏi đúng là hơi nổ lực, có phải không?

    3- Thứ ba, là tu tập cố gắng xây đắp những mạng lưới của năng lực tích cực và sự tỉnh giác thâm sâu, thường được diễn dịch như sự tích tập "phước đức và tuệ trí". Nói cách khác chúng ta cố gắng tối đa với thể trạng nguyện vọng của tâm giác ngộ, để hổ trợ người khác, tối đa như có thể. Đó là sự xây đắp năng lực tích cực, phước đức. Chúng ta không chỉ ngồi trên tọa cự và mong ước mọi người được an lành, nhưng ngay cả trước khi thọ giới Bồ tát, thì chúng ta cố gắng để giúp người khác tối đã như chúng ta có thể. Đây là đang xây dựng một mạng lưới năng lực tích cực (hay tích lũy phước đức).

    Nói cách khác, không chỉ ngồi tại một nơi nho nhỏ an ổn nào đó: "Tôi mong ước mọi người được an lành. Tôi sẽ thành tựu Giác Ngộ và hổ trợ tất cả mọi người," nhưng trong đời sống hàng ngày chúng ta nói với những người khác khi họ yêu cầu giúp đở, "Tôi bận rộn quá" và "Đừng làm phiền tôi," và v.v…, như thế này sẽ không thành tựu được. Một cách tối đa có nghĩa là hãy thực tế, không hứa hẹn điều gì đó ngoài hoàn cảnh và giai tầng của chúng ta hiện tại. Tịch Thiên nhấn mạnh điều này một cách thật rõ ràng. Đừng hứa hẹn ngoài khả năng của chúng ta. Châm ngôn được sử dụng là "Tôi mời mọi người làm khách của tôi đến tiệc lớn Giác Ngộ." Tịch Thiên nói những điều này trong một cách thi vị, có nghĩa là tôi sẽ làm việc cho sự Giác Ngộ của quý vị, vì thế tôi sẽ mời quý vị như vị khách đến cũng để Giác Ngộ. Đây là điều chúng ta đang hứa hẹn và điều này chúng ta sẽ không bao giờ từ bỏ, và điều này tôi sẽ bày tỏ với quý vị khi tôi thành tựu Giác Ngộ. Điều đó khác với những gì tôi đang liên hệ đến, là điều mà một vị Bồ tát tại một trình độ nào đó không thử cố gắng để làm những hành vi Bồ tát của một vị Bồ tát ở trình độ cao hơn. Điều đó được tuyên bố một cách thi vị như "Một con sói không nhảy nơi một con sư tử có thể nhảy qua."

    Tịch Thiên nói là hãy thẩm tra chính mình một cách cẩn thận trước khi hứa hẹn làm điều gì đó như, "Tôi sẽ chuyển dịch toàn bộ tạng kinh Kangyur (Cam Thù) sang tiếng Nga," khi mà chúng ta thật sự không thể thực hiện lời hứa ấy trong một thời gian ngắn ngũi này. Sau đó hãy thẩm tra một cách kỷ lưỡng là quý vị có thể làm điều ấy hay không. Và tốt hơn là là nói "Tôi không thể làm việc đó" trước, hơn là hứa hẹn và bắt đầu và rồi từ bỏ bởi vì quý vị không thể làm việc đó. Như vậy là khác với hứa hẹn đem mọi người đến Giác Ngộ. Okay. Cho nên chúng ta hãy cố gắng tối đa để giúp đở người khác, để tích tập phước đức, và thiền tập về tánh không, để trau dồi tuệ trí ở bất cứ trình độ thấu hiểu nào về tánh không mà chúng ta có. Và tại sao tôi làm điều này? Tôi làm điều này nhằm để có thể thành tựu Giác Ngộ để giúp đở mọi người. Cho nên nó giúp cho tâm Bồ tát kiên quyết của chúng ta không bị suy thoái.

    4-Thứ tư. Chúng ta không bao giờ từ bỏ việc cố gắng (hay tối thiểu mong ước) để giúp đở bất cứ người nào, bất chấp người ấy là khó khăn như thế nào. Hãy nhớ, tâm giác ngộ: chúng ta đang hành động để làm lợi ích cho tất cả mọi người, bất chấp chúng là khó khăn như thế nào. Dĩ nhiên chúng ta có thể mở rộng điều này đến con muỗi đang bay chung quanh đầu chúng ta trong khi chúng ta đang cố gắng để ngủ. "Tôi sẽ không bao giờ từ bỏ việc cố gắng để đem quý vị đến Giác Ngộ, vị Muỗi thân mến của tôi, bởi vì trong kiếp sống trước ngươi đã là mẹ của ta." Như vậy là quá tiến bộ có phải không? Nhưng chúng ta có thể tối thiểu mở rộng điều này đến những con người khác.

    Tôi sẽ cho quý vị một thí dụ về kinh nghiệm của chính tôi. Có một phụ nữ ở Đức quốc và bà ta bị chứng tâm thần phân liệt, và bà ta đang rất tệ hại và từ chối không đi đến sự giúp đở tâm lý trị liệu chuyên môn. Bà ta luôn luôn đi quanh những tổ chức Phật Pháp và những vị thầy thế nào đó giúp bà ta và những nơi đó ngay cả không hiểu biết rằng bà bị tâm thần phân liệt. Và bà ta đặc biệt theo sát tôi và gọi tôi trong mọi lúc và gửi tôi email trong mọi thời. Bà ta bị từ chối khỏi rất nhiều trung tâm và tổ chức Phật Pháp bởi vì bà có thể gây khó chịu cho người khác khi bà ta ở đấy và hành động trong một cách khó khăn. Và khi bà ta gọi tôi tôi luôn luôn nói với bà, "Hãy nhìn", tôi nói mộ cách rất rõ ràng, "Tôi không thể giúp đở bà. Việc này ngoài khả năng của tôi. Tôi không phải là một nhà tâm lý trị liệu chuyên môn. Tôi không biết giúp đở bà như thế nào. Bà phải đến những nhà chuyên môn." Cho bà một câu mật chú nào đó để trì tụng, hay điều gì như thế là ngu ngơ. Điều đó sẽ không giúp gì cho bà ta ở giai tầng này của sự quấy rầy tinh thần. Thế này nhé, thật dễ dàng nếu bà ta gọi, chỉ bắt máy và nói, "Đừng bao giờ gọi tôi nữa" và quên nó đi. Nhưng có một sự tu tập, tôi đã từng nói một cách rõ ràng rằng tô không thể giúp bà bây giờ, nhưng tối thiểu tôi mong muốn, "Tôi ước rằng tôi có thể giúp bà." Tôi không thể việc đó bây giờ. Và vì thế tôi không chỉ ném bà ta vào thùng rác. Điều này đòi hỏi một sự kiên nhẫn lớn, dĩ nhiên, và sự bao dung lớn, nhưng đây là loại việc mà chúng ta làm bây giờ với sự tu tập này. Vấn đề là tôi không nói bà ta biến đi hay cút xéo tối thiểu là cũng giúp đở thế nào đó. Mặc dù, như tôi mới nói trước đây, tôi không giả vờ rằng tôi có thể làm việc gì đó hơn khả năng của tôi. Tôi không thể giúp đở bà ta.

    Như thế đó là bốn sự tu tập cho tâm giác ngộ kiên quyết của chúng ta không bị thoái trào trong kiếp sống này. Rồi thì:

    5- Thứ năm chúng ta hứa tuân theo điều tu tập thứ năm, nhằm hướng để không đánh mất tâm giác ngộ của chúng ta trong những kiếp sống tương lai. Và điều này liên hệ đến bốn mô thức đối kháng của thái độ. Do thế điều đó có nghĩa là tránh hay dừng hàn động trong một cách nào đó, và thay vì thế hành động trong cách đối kháng lại. Đó là những gì chúng ta muốn nói bằng một cách đối kháng của thái độ.

    a- Thứ nhất là chúng ta dừng sự lừa dối các vị đạo sư, cha mẹ, và tam bảo (Phật, Pháp, Tăng). Thay vì thế chúng ta luôn luôn trung thực với quý vị ấy, một cách đặc biệt về động cơ của chúng ta và nổ lực để giúp đở người khác của chúng ta. Điều này là rất quan trọng. Với cha mẹ, chúng ta bắt đầu. Cha mẹ là những người chăm sóc chúng ta như những đứa bé và nuôi dưỡng chúng ta v.v… Chúng ta luôn luôn lệ thuộc vào cha mẹ - ngoại trừ chúng ta được sinh ra từ bông sen như ngài Liên Hoa Sanh, nhưng hãy nói thêm về những gì sẽ xảy ra một cách thông thường. Và vì thế bởi vì sự ân cần của họ đối với chúng ta và nhu cầu dựa vào cha mẹ trong tương lai, quý vị không muốn hành động trong một cách lừa dối họ, lường gạt họ, giả vờ điều gì đó mà chúng ta không thế, một cách đặc biệt trong dạng thức của những vấn đề tâm linh, mà chúng ta nói đến. Nhưng thay vì thế, như tôi nói, chúng ta trung thực với họ. Bây giờ điều này rất rõ ràng và thẳng thắn rằng nếu chúng ta nói về những vị thầy tâm linh. Quý vị không muốn lừa dối và nói láo, "Ô, tôi đã thực chứng điều này, hay điều nọ." khi chúng chưa, hay "tôi đang thực hành điều này hay điều nọ," khi chúng ta không thế. Hay Phật, Pháp, Tăng (tam bảo): "Tôi đang đi trong phương hướng này, và tôi đang đặt phương hướng này trong đời sống của tôi" - và chúng ta không thế. Chúng ta chỉ đang làm việc cho một mục tiêu tổn hại nào đó. Nếu chúng ta muốn tiếp tục những kiếp sống tương lai với tâm giác ngộ của chúng ta, thì chúng ta cần nương tựa vào cha mẹ; chúng ta cần nương tựa vào những vị đạo sư; chúng ta sẽ cần quy y, theo phương hướng an toàn của Phật, Pháp, và Tăng. Đó là tại sao chúng ta không lừa dối các vị ấy. Chúng ta trung thực với các vị ấy vì thế chúng ta sẽ tiếp tục có những hoàn cảnh để phát triển tâm giác ngộ trong những kiếp sống tương lai với tâm giác ngộ kiên quyết, để làm mới nó, để phát sinh nó trong những kiếp sống tương lai.

    Giới Bồ tát và giới mật tông không giống như giới biệt giải thoát. Giới biệt giải thoát chúng ta chỉ thọ nó cho kiếp sống này. Giới Bồ tát và mật tông chúng ta thọ cho toàn bộ tất cả những kiếp sống, toàn bộ con đường cho đến Giác Ngộ. Cho nên nếu chúng ta thọ giới Bồ tát trong kiếp sống này, trong kiếp sống tới, vào lúc đầu, chúng sẽ im lìm, ngủ; không hoạt động. Giả như chúng ta sinh ra như một con gián. Vậy thì con gián có Bồ tát giới không? Nếu con gián đã thọ giới Bồ tát trong kiếp trước, à, vâng, thế thì chúng im lìm không hoạt động. Chúng vẫn ở nơi nào đó trong dòng suối tâm, sự tương tục tinh thần. Con gián không thực hành thái độ Bồ tát.

    Một giới Bồ tát quý vị tiếp nhận cho đến khi Giác Ngộ. Cho nên bây giờ tôi chết, với những giới Bồ tát của tôi không bị ảnh hưởng, và tôi tái sanh như một con gián. Tôi vẫn giới Bồ tát như một con gián trong kiếp sống con gián chứ? Vâng, chúng hoạt động chứ? Không. Sẽ phải phát tâm, phát triển một lần nữa, tâm giác ngộ và thọ giới Bồ tát một lần  nữa, ngay cả nếu chúng ta tái sanh như một con người. Và vì thế có nghĩa là chúng ta sẽ phải lệ thuộc vào cha mẹ và một vị thầy tâm linh và Ba Ngôi Tôn Quý. Và vì thế quý vị muốn có một mối quan hệ chân thành thẳng thắn với họ chứ không phải là một thứ lừa dối. Bởi vì điều gì sẽ xảy ra nếu quý vị có một vị thầy lừa đảo. Rồi thì quý sẽ  phải đón nhận tất cả những loại hoàn cảnh ngược đãi và giáo phái cúng bái, và v.v… và cha mẹ có thể ngược đãi quý vị, và tất cả những thứ như vậy. Cho nên quý vị muốn tránh những thứ ấy để quý vị sẽ có thể phát triển tâm giác ngộ thuần khiết một lần nữa trong những kiếp sống tương lai.

    Nhưng như tôi nói, với cha mẹ hơi tế nhị một tí vì nhiều người trong chúng ta có thể có cha mẹ không nhất thiết là thấu hiểu con đường tâm linh của chúng ta hay ưa thích nó. Chúng ta không nói về phải nói với cha mẹ chúng ta mọi chi tiết tỉ mỉ về đời sống riêng tư, đời sống cá nhân của chúng ta. Chúng ta không phải nói dối, nhưng không có nghĩa là chúng ta phải nói tất cả mọi thứ. Nhưng điều đang liên hệ là trong hình thức của những việc tâm linh, trong mô thức của việc hổ trợ họ. Nếu tôi nói tôi sẽ giúp đở cha mẹ tôi, đem rác ra ngoài mỗi ngày, thế thì tôi làm như thế mỗi ngày. Tôi không lừa dối họ, loại việc thế này, trong hình thức hổ trợ họ, trong mô thức nếu cha mẹ hỏi về sự thực hành tâm linh của chúng ta. "À, vâng, tôi…" Chúng ta không nói dối việc rằng việc này không là điều gì đấy quan trọng trong đời sống của tôi.

    b- Thứ haichấm dứt chê trách và khinh thường chư vị Bồ tát. Khinh thường có nghĩa là chúng tôi không thích quý vị, chúng tôi thấy khuyết điểm bởi vì chúng tôi sân hận với người này. Nhưng rắc rối ở đây là ngoại trừ chúng ta là Phật, thì chúng ta sẽ không bao giờ chắc chắn ai thật sự là Bồ tát. Ngược lại điều này là xem mọi người như vị thầy của chúng ta. Ngay cả nếu người ta đang hành động trong một cung cách thô lỗ và ghê tởm, tuy nhiên họ dạy chúng ta không cư xử trong cách ấy. Bây giờ quý vị phải rất cẩn thận với điều này bởi vì quý vị có thể lỗi lầm khi nói điều này như là luật định, và nó là một sự tồn tại hoàn toàn tự chính nó từ phía nó, và chúng ta không cố gắng để thấy tính tương đối của điều này. Bởi vì ở đây không nói rằng nếu người nào đó đang hành động một cách tàn phá và quý vị không cố gắng để làm họ dừng lại khi người nào đó đang làm một sai sót hay người nào đó đang hành động một cách tổn hại, đó là một phần của Bồ tát giới: nếu quý vị có khả năng để chặn họ lại, thì quý vị phải làm họ ngưng lại. Đức Phật luôn làm như vậy. Vấn đề ở đây là không tìm khuyết điểm, với sân hận và thù oán. "Ngươi là một người xấu và bây giờ ta phải trừng phạt ngươi, ta sẽ đánh ngươi". Người này đang hành động một cách tai hại; họ là thầy tôi; dĩ nhiên, họ đang dạy tôi không hành động như vậy. Tuy nhiên, tôi muốn giúp họ, và để giúp họ thì tôi cần giúp họ dừng tạo nghiệp bất thiện và để dừng việc làm tổn hại. Vì thế tôi đang làm việc này với từ ái và bi mẫn.

    Bổn sư của tôi, Serkong Rinpoche, không đề cập tên, có một vị thầy tâm linh Tây Tạng nọ, người đang dạy học trò của ngài thực hiện điều gì đó để làm một loại thực tập nào đó rất cao, vượt ngoài trình độ của những môn nhân này. Và Serkong Rinpoche, nói, "À, vâng, động cơ của vị thầy này có thể là trong sạch, loại động cơ của tâm giác ngộ để giúp đở  người khác, nhưng những phương pháp của ngài không thiện xảo lắm.'' Ngài đang chỉ ra một khuyết điểm và ngay cả không đang chỉ ra cho vị thầy ấy, mà đang chỉ ra tới tôi, một học trò của ngài. Có phải là tán gẫu không?  Không. Serkong Rinpoche đang làm gì? Ngài đang chỉ ra - ngài không giận hờn với vị thầy ấy, nhưng ngài đang dạy tôi rằng bất chấp mục tiêu và động cơ cùng xu hướng tâm giác ngộ của quý vị là tốt lành đi nữa, nhưng quý vị phải thiện xảo trong các phương pháp khi sử dụng để giúp đở người khác. Hãy suy nghĩ một cách cẩn  thận về những gì quý vị dạy người khác.

    Cho nên chúng ta phải thừa nhận rằng người nào đó đang làm một sai sót khi họ đang làm sai sót; chúng ta không phải sân hận, và chúng ta cố gắng để học hỏi từ điều đó. Và nếu người kia dễ tiếp thu để thay đổi, thì chúng ta chỉ ra khuyết điểm của họ. Nếu họ là một vị Bồ tát, hay mong muốn để là một vị Bồ tát, không có nghĩa là họ thiện xảo như một Đức Phật và biết một cách chính xác đâu là cách tốt nhất để hành động và lợi ích của việc  này là gì. Và chúng ta làm việc này mà không phải la lên như: "Ta là thẩm quyền thánh thiện" và "Thánh thiện, thánh thiện, ta thiêng liêng! Ta biết điều gì là tốt nhất". Chắc chắn không phải là trong cách tự phụ như thế, mà rất khiêm tốn, một lời khuyên dâng hiến. Cho nên vấn đề không phải là bình phẩm, không phải bới tìm khuyết điểm vì sân hận; "với tình trạng khinh thường của tâm tư," với sự thù ghét con người, sân hận với họ. Bởi vì họ đang cố gắng. Chúng ta không biết. Tôi không phải là một Đức Phật, vì thế tôi không biết có phải quý vị hành động trong cách này do bởi là một vị Bồ tát thiếu thiện xảo, hay có phải quý vị hành động trong cách này bởi vì quý vị là vô cùng si mê. Nhưng vấn đề là không nổi giận với người ấy, bởi vì người ấy có thể là một vị Bồ tát tiềm tàng., và vì thế có lẻ họ đang hành động để dạy tôi điều gì đó, sau đó chúng ta tiếp tục phải tôn kính cho thái độ Bồ tát, và điều đó sẽ giúp chúng ta tiếp tục có tâm giác ngộ kiên quyết này trong những kiếp sống tương lai.

    c- Thứ bachúng ta chấm dứt làm người khác hối hận bất điều tích cực hay tiêu cực gì mà họ đã làm. Thay vì thế chúng ta khuyến khích người khác hãy tích cực và hữu dụng, và nếu họ dễ tiếp thu thì chúng ta động viên họ làm việc trong việc phát triển tâm giác ngộ, đi theo con đường tâm linh đến Giác Ngộ. Đó là những người nào đó đang làm điều gì đó tích cực, họ đang thực hành một loại thực tập tâm linh nào đó, đang theo một vị thầy nào đó không phải thầy của chúng ta. Điều chúng ta cần là tránh làm cho họ hối hận như: "Quý vị là khờ dại mới theo vị thầy ấy, thực hành như thế ấy, hay thuộc trung tâm Phật Pháp ấy" - làm họ phải hối hận đã làm những việc ấy. Người ta có thể rất chán nản, thất vọng và hoàn toàn không muốn tiếp tục nữa. Nhưng chúng ta hãy khuyến khích họ, chúng ta giúp đở họ. Nếu những gì họ đang làm là xây dựng, tích cực - quá tốt! Và nếu họ dễ lãnh hội, chúng ta hãy đề nghị những thứ xa hơn mà họ có thể làm. Nếu họ không dễ tiếp thu, thì đừng. Nếu chúng ta muốn mọi người thành tựu Giác Ngộ, thế thì những gì sẽ hổ trợ họ để đạt được Giác Ngộ là hành động của họ là xây dựng; cho nên nếu họ đã hành động một cách tích cực thì hãy động viên họ - tốt quá! Đừng làm họ chán nản bởi việc làm họ hối hận. Họ cúng dường tiền của đến một trung tâm Phật Pháp khác, chứ không phải trung tâm của tôi!"A, quý vị không nên làm như vậy - quý vị nên cúng cho tôi." Đó không phải là cách chúng ta làm, okay.

    d- Điều cuối cùng, điều sau cùng trong bốn điều này, là chấm dứt đạo đức giả và khoe khoang trong việc giao tiếp với người khác. Biểu hiện "đạo đức giả" là che dấu lỗi lầm của chúng ta khi chúng ta có và giả vờ như không có, và "khoe khoang" có nghĩa là chúng ta giả vờ có những phẩm chất mà chúng ta không có. Tôi là một người đạo đức giả: Tôi nói quý vị không hút thuốc, nhưng tôi ra ngoài và trong phòng riêng tôi hút thuốc. Đó là đạo đức giả. Tôi đang che dấu những khuyết điểm của tôi.

    Okay. Cho nên thay vì hành động như vậy trong việc giao tiếp với người khác, nếu chúng ta đang tiếp nhận trách nhiệm hổ trợ người khác thì chúng ta phải luôn luôn trung thực và cởi mở với họ. Những giới hạn của chúng ta là gì? Những năng lực của chúng ta là gì? Điều đó là rất, rất quan trọng. Những con người khác nhau, một cách đặc biệt nếu quý vị ở trong phạm vi Phật Pháp và cố gắng để giúp đở người khác hoặc là một vị thầy hay một hành giả Phật Pháp, đừng giả bộ là một loại người thánh thiện nếu quý vị không phải thế. Nhiều người tuyệt vọng trong việc giúp đở một cách rất dễ dàng sẽ vọng tưởng tất cả mọi thứ vào người nào đó mà họ thấy như khả dĩ có thể giúp đở họ. Họ lãng mạn, lý tưởng, và có tất cả những hy vọng không thật. Và thường thì họ cực kỳ thất vọng và rất chán nản vào lúc cuối - "vở mộng" như chúng ta thường nói trong tiếng Anh “disillusioned” - và chúng ta có thể thậm chí từ bỏ. Nhưng nếu chúng ta ở trong vị thế để giúp đở người khác, hay nếu chúng ta là một vị thầy, thì chúng ta không nhất thiết phơi bày tất cả mọi khuyết điểm của chúng ta; nhưng khi nó liên hệ đến người khác, thì chúng ta thừa nhận khuyết điểm của chúng ta. "Tôi chưa học điều này. Tôi vẫn không nhẫn nhục lắm. Tôi vẫn sân hận." Quý vị thừa nhận những khuyết điểm này. Quý vị không dấu diếm chúng, nhưng quý vị nói rằng tôi đang làm việc với những thứ này. Bởi vì nếu chúng đang cố gắng để hổ trợ người khác, thường thường - mặc dù họ có thể là đầy cảm hứng bởi một lý tưởng hóa nào đó - thường thì điều sẽ truyền cảm hứng hơn trên một trình độ ổn định là tấm gương của người nào đó đang thật chân thành hành động với những khuyết điểm của họ. Đó là điều gì đó mà quý vị có thể liên hệ hơn như một học trò cần giúp đở.

    Cho nên đây là năm loại tu tập mà chúng ta hứa hẹn tuân theo khi chúng ta có thể trạng nguyện vọng của tâm giác ngộ, và một cách đặc biệt thể trạng phát nguyện cam kết. Bốn tu tập cho tâm giác ngộ kiên quyết không bị suy thoái trong kiếp sống này; và một tu tập (điều thật sự có bốn phần này) để không đánh mất tâm giác ngộ kiên quyết trong những kiếp sống tương lai.

    Chúng ta sẽ chấm dứt buổi giảng ở đây và sẽ tiếp tục vào lúc 5 giờ. Và nếu quý vị có câu hỏi nào, thì chúng ta có thể bắt đầu buổi giảng với một số câu hỏi. Okay. Cảm ơn.

    Source TVNHS

    Read more »
  • Chú Đại Bi - Trị Bá Bệnh

    "Thần Chú Đại Bi vi diệu bất khả tư nghì. Hành giả một niệm khởi lên phải quán sát tương ưng với hành động thiện. Nếu cuộc sống

    thế gian hành giả đã bỏ qua nhiều cơ hội thực hành Lục Độ Ba La Mật. hảy suy gẩm lại, trước khi công phu trì niệm, vì đây là điều

    rất cần thiết trợ duyên thực hành pháp. Nói tóm lại một niệm khởi lên phải tương đương với hành động thiên". Chắc chắn sẽ có kết quả

    1. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
    2. Nam mô a rị da
    3. Bà lô yết đế thước bát ra da
    4. Bồ Đề tát đỏa bà da
    5. Ma ha tát đỏa bà da
    6. Ma ha ca lô ni ca da
    7. Án
    8. Tát bàn ra phạt duệ
    9. Số đát na đát tỏa
    10.Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da
    11.Bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà
    12.Nam mô na ra cẩn trì
    13.Hê rị, ma ha bàn đa sa mế
    14.Tát bà a tha đậu du bằng
    15.A thệ dựng
    16.Tát bà tát đa (Na ma bà tát đa)
    17.Na ma bà dà
    18.Ma phạt đạt đậu đát điệt tha
    19.Án. A bà lô hê
    20.Lô ca đế
    21.Ca ra đế
    22.Di hê rị
    23.Ma ha bồ đề tát đỏa
    24.Tát bà tát bà
    25.Ma ra ma ra
    26.Ma hê ma hê rị đà dựng
    27.Cu lô cu lô yết mông
    28.Độ lô độ lô phạt xà da đế
    29.Ma ha phạt xà da đế
    30.Đà ra đà ra
    31.Địa rị ni
    32.Thất Phật ra da
    33.Giá ra giá ra
    34.Mạ mạ phạt ma ra
    35.Mục đế lệ
    36.Y hê di hê
    37.Thất na thất na
    38 A Ra sâm Phật ra xá lợi
    39.Phạt sa phạt sâm
    40.Phật ra xá da
    41.Hô lô hô lô ma ra
    42.Hô lô hô lô hê rị
    43.Ta ra ta ra
    44.Tất rị tất rị
    45.Tô rô tô rô
    46.Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ
    47.Bồ đà dạ bồ đà dạ
    48.Di đế rị dạ
    49.Na ra cẩn trì
    50.Địa rị sắc ni na
    51.Ba dạ ma na
    52.Ta bà ha
    53.Tất đà dạ
    54.Ta bà ha
    55.Ma ha tất đà dạ
    56.Ta bà ha
    57.Tất đà du nghệ
    58.Thất bàn ra dạ
    59.Ta bà ha
    60.Na ra cẩn trì
    61.Ta bà ha
    62.Ma ra na ra
    63.Ta bà ha
    64.Tất ra tăng a mục khê da
    65.Ta bà ha
    66.Ta bà ma ha a tất đà dạ
    67.Ta bà ha
    68.Giả kiết ra a tất đà dạ
    69.Ta bà ha
    70.Ba đà ma kiết tất đà dạ
    71.Ta bà ha
    72.Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ
    73.Ta bà ha
    74.Ma bà rị thắng yết ra dạ
    75.Ta bà ha
    76.Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da
    77.Nam mô a rị da
    78.Bà lô kiết đế
    79.Thước bàn ra dạ
    80.Ta bà ha
    81.Án. Tất điện đô
    82.Mạn đà ra
    83.Bạt đà gia
    84.Ta bà ha.

     


    Read more »
  • Mầu nhiệm thay Hai bài Thần chú

    Hai thần chú nổi tiếng nhất của Tây Tạng là thần chú của Padmasambhava, gọi là thần chú Kim cang Thượng sư (Vajra Guru Mantra) OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM, và thần chú của Quán Thế Âm, vị Phật của lòng bi mẫn: OM MANI PADME HUM. Hai thần chú này cũng như phần đông thần chú, đều bằng Phạn ngữ, cổ ngữ thiêng liêng của Ấn Độ.

    THẦN CHÚ KIM CANG THƯỢNG SƯ
     
     
    Thần chú này được giải thích căn cứ lời giảng dạy của hai ngài Dudjom Rinpoche và Dilgo Khientse Rinpoche.
     
    OM AH HUM
     
    Những âm OM AH HUM có nghĩa ngoài, nghĩa trong và nghĩa mật. Nhưng ở mỗi tầng như vậy, OM đều tiêu biểu cho thân. AH là lời và HUM là ý. Cả ba âm tiêu biểu năng lực ân sủng của chư Phật để chuyển hóa thân, lời, ý.
     
    Theo nghĩa ngoài, OM tịnh hóa mọi ác nghiệp của thân, AH của lời, và HUM của ý. Nhờ tịnh hóa thân, lời, ý, OM AH HUM đem lại ân sủng của thân, lời, ý chư Phật. OM cũng là tinh túy của hình sắc, AH của âm thanh, HUM của ý. Khi đọc thần chú này, là ta tịnh hóa hoàn cảnh cũng như bản thân và những người ở trong đó. OM tịnh hóa tất cả nhận thức, AH tất cả âm thanh, và HUM tất cả tâm, ý nghĩ và cảm xúc.
     
    Theo nghĩa trong, OM tịnh hóa những huyệt đạo vi tế, AH tịnh hóa nội phong hay khí lực, và HUM tịnh hóa tinh chất sáng tạo.
     
    Ở tầng mức sâu hơn, OM AH HUM biểu trưng ba thân của Liên Hoa bộ: OM là Pháp thân, Phật A Di Đà, đức Phật của Ánh sáng vô lượng, AH là Báo thân, Quán Thế Âm, vị Phật của tâm đại bi, và HUM là Ứng hóa thân, Liên Hoa Sanh. Điều này có nghĩa, trong trường hợp của thần chú này, cả ba thân đều thể hiện trong một vị là Padmasambhava, Liên Hoa Sanh.
     
    VAJRA GURU PADMA
     
    VAJRA được ví như kim cương, đá quý nhất và cứng nhất. Cũng như kim cương có thể cắt bất cứ gì, mà chính nó thì không có gì phá hủy được, cũng thế trí tuệ bất nhị bất biến của chư Phật không bao giờ bị hại hay bị phá hủy bởi vô minh, và có thể cắt đứt mọi vọng tưởng chướng ngại. Những đức tính và hoạt động thân, lời, ý của chư Phật có thể làm lợi lạc hữu tình với năng lực sắc bén vô ngại như kim cường. Và cũng như kim cương không tỳ vết, năng lực sáng chói của nó tuôn phát từ sự chứng ngộ bản chất Pháp thân của thực tại, bản chất của Phật A Di Đà.
     
    GURU có nghĩ là "sức nặng", chỉ một người tràn đầy đức tính kỳ diệu, thể hiện trí tuệ, hiểu biết, từ bi và phương tiện thiện xảo. Cũng như vàng ròng là kim loại nặng nhất, quý nhất, cũng thế, những đức không lỗi, không thể nghĩ bàn của bậc thầy làm cho vị ấy không ai vượt qua được, thù thắng hơn tất cả. GURU tương đương với Báo thân, và với Quán Thế Âm, vị Phật của tâm đại bi. Lại nữa, vị Padmasambhava (Liên Hoa Sanh) giảng dạy con đường Mật tông, biểu tượng là Kim cương, và nhờ thực hành Mật tông mà ngài đạt giác ngộ tối thượng, cho nên ngài được biết dưới danh hiệu là Kim cang thượng sư.
     
    PADMA, hoa sen, có nghĩa là Liên hoa bộ trong ngũ bộ, và nhất là khía cạnh Ngôn ngữ giác ngộ của chư Phật ấy. Liên hoa bộ là dòng họ Phật mà con người thuộc vào. Vì Padmasambhava là ứng thân trực tiếp của Phật A Di Đà, vị Phật nguyên ủy của Liên hoa bộ, nên ngài được gọi là "PADMA", hoa sen. Danh hiệu Liên Hoa Sanh của ngài kỳ thực ám chỉ câu chuyện ngài sinh ra trên một đóa sen nở.
     
    Khi những âm VAJRA GURU PADMA đi liền nhau, thì cũng có nghĩa là tinh tuy và ân sủng của Kiến, Thiền và Hành. VAJRA nghĩa là tinh chất của chân lý bất khả hoại, bất biến, cứng chắc như kim cương, mà chúng ta cầu mong thực hiện được trong Kiến của chúng ta. GURU tiêu biểu tính chất ánh sáng và sự cao quý của giác ngộ, mà ta cầu cho kiện toàn trong thiền định của mình. PADMA tiêu biểu Bi mẫn, mà chúng ta cầu thể hiện được trong Hành động của chúng ta.
     
    Vậy, nhờ tụng đọc thần chú này mà ta nhận được ân sủng của tâm giác ngộ, những đức cao quý và lòng bi mẫn của Padmasambhva và tất cả chư Phật.
     
    SIDDHI HUM
     
    SIDDHI là thành tựu, đạt đến, ân sủng và chứng ngộ. Có hai thứ thành tựu: tương đối và tuyệt đối. Nhờ nhận được ân sủng tương đối, tất cả chướng ngại trong đời như bệnh tật được tiêu trừ, mọi ước nguyện tốt được thành tựu, những lợi lạc như sống lâu, tiền của tăng và mọi hoàn cảnh đều tốt lành, giúp cho tu tiến và chứng ngộ. Thành tựu, hay ân sủng tuyệt đối đem lại giác ngộ, trạng thái thực chứng hoàn toàn của đấng Liên Hoa Sanh để tự lợi và lợi tha. Bởi thế, nhờ nhớ đến và cầu nguyện với những năng lực thân, lời, ý của ngài mà chúng ta sẽ được những ân sủng tương đối và tuyệt đối.
     
    SIDDHI HUM được xem là thâu tóm vào tất cả ân sủng, như nam châm hút sắt.
     
    HUM tiêu biểu tâm giác ngộ của chư Phật, và là xúc tác thiêng liêng của thần chú. Giống như tuyên bố lên quyền năng và chân lý của thần chú: "Hãy là như vậy!" .
     
    Ý nghĩa cốt yếu của bài chú là: "Con triệu thỉnh ngài, đấng Kim cang thượng sư, với ân sủng của ngài, xin hãy ban cho con những thành tựu thế gian và xuất thế gian".
     
    Dilgo Khientse Rinpoche giải thích:
     
    Mười hai âm OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM mang tất cả ân sủng của mười hai bộ kinh giáo của Phật, tinh túy của tám muôn bốn ngàn pháp môn. Bởi thế, tụng một lần thần chú Kim cang thượng sư cũng có phước như là đã đọc mười hai bộ loại kinh điển và thực hành các pháp môn khác. Mười hai bộ loại kinh điển là phương thuốc giải cứu chúng ta khỏi mười hai nhân duyên giam giữ chúng ta trong vòng sinh tử. Vô minh, hành, thức, danh sắc, sáu nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, già chết ; mười hai móc xích này là guồng máy của luân hồi sinh tử, làm cho luân hồi tiếp nối. Nhờ tụng đọc mười hai âm này của thần chú Kim cang thượng sư, mười hai nhân duyên được tịnh hóa, tẩy sạch cấu uế của nghiệp cảm và giải thoát sinh tử.
     
    Mặc dù ta không thể trông thấy đức Liên Hoa Sanh, nhưng tâm giác ngộ của ngài đã thể hiện dưới hình thức thần chú này, thần chú này có được toàn thể ân sủng ngài. Bởi thế khi bạn kêu cầu ngài bằng cách tụng đọc mười hai âm thần chú này thì bạn sẽ được ân sủng và công đức vô lượng. Trong thời đại khó khăn này, không có chỗ nương nào bảo đảm hơn là đấng Liên Hoa Sanh, cũng như không có thần chú nào thích hợp hơn thần chú Kim cang thượng sư của ngài.
     
     
    THẦN CHÚ CỦA ĐẠI BI TÂM
     
    OM MANI PADME HUM
     
     
    Tạng ngữ đọc là Om Mani Pémé Hung. Thần chú này tiêu biểu tâm đại bi và ân sủng của tất cả chư Phật, Bồ-tát, nhất là ân sủng của Quán Tự Tại, vị Phật của lòng bi mẫn. Quán Tự Tại (hay Quán Thế Âm) là hiện thân của Phật trong hình thức Báo thân, và thần chú của ngài được xem là tinh túy của lòng bi mẫn của chư Phật đối với hữu tình. Nếu Liên Hoa Sanh là bậc thầy quan trọng nhất của người Tây Tạng, thì Quán Tự Tại là vị Phật quan trọng nhất của họ, là vị thần hộ mạng của dân tộc này. Có câu nói nổi tiếng là vị Phật của lòng bi mẫn đã ăn sâu vào tiềm thức Tây Tạng tới nỗi một hài nhi vừa biết nói tiếng "Mẹ" là đã biết đọc thần chú này, OM MANI PADME HUM.
     
    Tương truyền vô lượng kiếp về trước có một ngàn thái tử phát tâm Bồ-đề nguyện thành Phật. Một vị nguyện thành Phật Thích Ca mà ta đã biết ; nhưng Quán Tự Tại thì nguyện sẽ không đạt thành Chánh giác khi mà tất cả ngàn thái tử chưa thành. Với tâm đại bi vô biên, ngài còn nguyện giải thoát tất cả chúng sanh ra khỏi khổ sinh tử luân hồi trong lục đạo. Trước mười phương chư Phật, ngài phát nguyện: "Nguyện cho con cứu giúp được tất cả hữu tình, và nếu có khi nào con mệt mỏi trong công việc lớn lao này thì nguyện cho thân con tan thành một ngàn mảnh". Đầu tiên, ngài xuống cõi địa ngục, tiến lên dần đến cõi ngạ quỷ, cho đến các cõi trời. Từ đấy ngài tình cờ nhìn xuống và trông thấy than ôi, mặc dù ngài đã cứu vô số chúng sanh thoát khỏi địa ngục, vẫn còn có vô số khác đang sa vào. Điều này làm cho ngài đau buồn vô tận, trong một lúc ngài gần mất tất cả niềm tin vào lời nguyện vĩ đại mà ngài đã phát, và thân thể ngài liền nổ tung thành ngàn mảnh. Trong cơn tuyệt vọng, ngài kêu cứu tất cả chư Phật. Những vị này từ mười phương thế giới đều bay đến như mưa tuyết để tiếp cứu. Với thần lực nhiệm mầu, chư Phật làm cho ngài hiện toàn thân trở lại, và từ đấy Quán Tự Tại có mười một cái đầu, một ngàn cánh tay, trên mỗi lòng tay có một con mắt. Ý nghĩa rằng sự phối hợp giữa trí tuệ và phương tiện thiện xảo là dấu hiệu của đại bi chân thực. Trong hình thức này, ngài còn sáng chói rực rỡ, và có nhiều năng lực hơn trước để cứu giúp tất cả chúng sanh. Tâm đại bi của ngài khi ấy còn mãnh liệt hơn nữa, và ngài lại phát lời nguyện này trước chư Phật: "Con nguyện không thành chánh giác khi tất cả chúng sanh chưa thành".
     
    Tương truyền rằng vì đau buồn trước nỗi khổ luân hồi sinh tử, hai giọt nước nướt mắt đã rơi từ đôi mắt ngài, và chư Phật đã làm phép biến hai giọt nước mắt ấy thành hai nữ thần Tara. Một nữ thần có màu xanh lục, năng lực hoạt động của tâm đại bi, và một nữ thần có màu trắng, khía cạnh như mẹ hiền của tâm đại bi. Tara có nghĩa là người giải cứu, người chuyên chở chúng ta vượt qua biển sinh tử.
     
    Theo kinh điển đại thừa, chính Quán Tự Tại đã cho đức Phật câu thần chú, và đức Phật trở lại giao phó cho ngài công tác cao quý đặc biệt là cứu giúp tất cả chúng sanh tiến đến giác ngộ. Vào lúc ấy, chư thiên tung hoa xuống ca ngợi hai ngài, quả đất chấn động, và không trung vang lên âm thanh OM MANI PADME HUM HRIH.
     
    Có câu thơ về ngài ý nghĩa như sau:
     
    "Quán Thế Âm như vầng trăng, với ánh sáng mát dịu, dập tắt những thiêu đốt của sinh tử. Trong ánh sáng ấy, đóa sen từ bi – lọai hoa nở về đêm – mở ra những cánh trắng tinh khôi" .
     
    Giáo lý giải thích rằng mỗi âm trong sáu âm của thần chú OM MANI PADME HUM có một hiệu quả đặc biệt để mang lại sự chuyển hóa thuộc nhiều tầng lớp khác nhau của bản thể ta. Sáu âm này tịnh hóa tất cả sáu phiền não gốc, biểu hiện của vô minh khiến chúng ta làm những ác nghiệp của thân, lời, ý, tạo ra luân hồi sinh tử và những khổ đau của chúng ta, trong đó kiêu mạn, ganh tị , dục vọng, ngu si, thèm khát và giận dữ, nhờ thần chú mà được chuyển hóa trở về bản chất thực của chúng, trí giác của sáu bộ tộc Phật thể hiện trong tâm giác ngộ. (Chú thích: Giáo lý thường nói đến năm bộ tộc Phật, bộ tộc thứ sáu là tổng hợp của năm bộ tộc trên).
     
    Bởi thế, khi ta tụng thần chú OM MANI PADME HUM thì sáu phiền não nói trên được tịnh hóa, nhờ vậy ngăn ngừa được sự tái sinh vào sáu cõi, xua tan nỗi khổ ẩn tàng trong mỗi cõi. Đồng thời thần chú này cũng tịnh hóa các uẩn thuộc ngã chấp, hoàn thành sáu hạnh siêu việt của tâm giác ngộ (sáu ba la mật): bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Người ta cũng nói rằng thần chú OM MANI PADME HUM có năng lực hộ trì rất lớn, che chở ta khỏi những ảnh hưởng xấu và các thứ tật bệnh.
     
    Thường có chủng tự HRIH của Quán Thế Âm được thêm vào sau câu thần chú, làm thành OM MANI PADME HUM HRIH. HRIH là tinh yếu tâm đại bi của tất cả chư Phật, là chất xúc tác đã khởi động tâm đại bi chư Phật để chuyển hóa các phiền não của ta thành bản chất trí tuệ của các ngài.
     
    Kalu Rinpoche viết:
     
    Một cách khác để giải thích thần chú này là: OM là tính chất của thân giác ngộ, MANI PADME tiêu biểu ngữ giác ngộ, HUM tiêu biểu ý giác ngộ. Thân, ngữ, ý của tất cả chư Phật được tàng ẩn trong âm thanh của thần chú này. Thần chú này tịnh hóa những chướng ngại của thân, lời, ý, và đưa tất cả hữu tình đến trạng thái chứng ngộ. Khi tụng thần chú này, mà phối hợp với đức tin và tinh tấn thiền định thì năng lực chuyển hóa của thần chú sẽ phát sinh và tăng trưởng. Quả vậy, chúng ta có thể tịnh hóa bản thân bằng phương pháp ấy.
     
    Đối với những người đã quen thuộc với thần chú này, suốt đời tụng đọc với nhiệt thành và niềm tin, thì Tử Thư Tây Tạng nói, ở trong cõi Trung Ấm: "Khi âm thanh của pháp tánh gầm thét như ngàn muôn sấm sét, nguyện cho tất cả tiếng này trở thành âm thanh của thần chú sáu âm". Tương tự, kinh Lăng Nghiêm cũng nói:
     
    "Mầu nhiệm thay là âm thanh siêu việt của Quán Thế Âm. Đấy là âm thanh tối sơ của vũ trụ... Đó là tiếng thì thầm âm ỉ của thủy triều trầm lắng. Tiếng mầu nhiệm ấy đem lại giải thoát bình an cho tất cả hữu tình đang kêu cứu trong cơn đau khổ, và đem lại một sự an trú thanh tịnh cho tất cả những ai đang tìm sự thanh tịnh vô biên của niết bàn".
     
    Source:Tang thu sinh tu
    Read more »
  • Thế Nào Là Mật Tông

    Thế Nào Là Mật Tông

     

    Đây là một pháp tu bí mật của Phật giáo, dạy về cách “bắt ấn”, “trì chú” v.v... Pháp tu nầy có tính chất liễu nghĩa (trọn đủ), căn cứ vào nơi tâm pháp bí truyền.

     

    Trong các pháp môn mà Phật đã chỉ dạy cho chúng sanh nương theo tu tập trong thời buổi “Mạt Pháp” sau nầy, hành môn nào cũng đều có một tôn chỉ thù thắng vi diệu.

    Ví dụ như :

    ·                                 Bên Tịnh Độ lấy tôn chỉ :

    “Một đời vãng sanh, được bất thối chuyển” làm tông.

    ·                                 Bên Thiền Tông lấy tôn chỉ :

    “Chỉ thẳng lòng người, thấy tánh thành Phật” làm tông.

    ·                                 Bên Hoa Nghiêm lấy tôn chỉ :

    “Lìa thế gian, nhập pháp giới” làm tông.

    ·                                 Bên Pháp Hoa lấy tôn chỉ :

    “Phế  huyền, hiển thật” làm tông.

    Và riêng :

    ·                                 Bên Mật Tông  lấy tôn chỉ:

    “Tam mật tương ưng, tức thân thành Phật” làm tông v.v...

    Tam mật là:  Thân mật - Khẩu mật  - Ý mật

     

    Tóm lại, pháp môn tuy nhiều và tôn chỉ khác nhau, nhưng tựu trung rồi cũng quy về một mục đích duy nhất là giải thoát khỏi sanh tử luân hồi mà thôi.

     

    Nay xin nói sơ qua về “Mật Tông”. Gọi là “Mật”, vì đây là một hành môn thuộc về “Bí-Mật Pháp-Môn”, chuyên dạy về cách trì Chú, bắt Ấn, nên phải có Sư thừa (tức người truyền dạy).

     

    1.              Sao gọi là Trì ?

    TRÌ có nghĩa là giữ hoài (trì giữ) không cho mất, không cho quên.

    2.              Sao gọi là Chú ?

    CHÚ nói cho đủ thì là Thần Chú, là lời bí mật. Nay để cho tiện, nên gọi tắt là “Chú”,

    Có người không hiểu, nói rằng :

    Thần Chú là của Thần đạo thuyết ra. Đó là trật, là sai lầm.

    ·                                 Chữ THẦN nơi đây có nghĩa là “thần thông, linh thông, biến hoá”.

    ·                                 Chữ CHÚ thì còn được gọi là CHÂN NGÔN.    

    Những câu Thần Chú của chư Phật và Bồ Tát thuyết ra có oai lực và công đức không thể nghĩ bàn. Ta phải nên phân biệt giữa TRÌ Chú và NIỆM Chú.

    ·                                 TRÌ Chú :

    Tức là 1 câu Chú phải được lập đi lập lại liên tục từ vài trăm biến (trăm lần) trở lên, thì mới được gọi là trì. Còn chỉ đọc 3 câu, 7 câu, thì là niệm, chứ không được gọi là trì.

    ·                                 TỤNG Chú hoặc NIỆM Chú :

    Tức là chỉ lướt qua có một lần mà thôi. Chẳng hạn như “Thập Chú Lăng Nghiêm” sáng được tụng lướt qua có 1 lần thôi, chứ không có tụng lần thứ 2, thứ 3.

    Thần Chú tiếng Phạn gọi là Dhàrani (Đà ra ni), tiếng Hán dịch là Tổng Trì, tiếng Anh gọi là Mantra.Vì bao gồm vô lượng pháp, nên gọi là “Tổng”, vì giữ chứa vô lượng nghĩa, nên gọi là “Trì”. Thần Chú mang ý nghĩa bao trùm (tổng) tất cả Pháp, gìn giữ (trì) tư tưởng cao thượng từ vô lượng diệu nghĩa của nội tâm. Câu "Thần Chú" là cả một “Tâm Ý” của chư Phật, Bồ Tát đối với chúng sanh.

     

    Ý nghĩa của Thần Chú thì cực kỳ bí mật, không ai hiểu được, ngoại trừ bổn tôn (vị chủ) của Thần Chú đó và chư Phật mới biết được mà thôi.

     

    Có ba loại Ðà ra ni, đó là : Một chữ, nhiều chữ, và không chữ (vô tự).

     

    Thần Chú của Phật khác với của Tà đạo. Chú của Phật có công năng phá tà lập chánh, tiêu diệt nghiệp ác, phá được vọng tưởng tà quấy, phát sanh trí huệ, tăng trưởng phước đức căn lành, ngăn trừ tội lỗi, cứu mình độ người thoát khỏi ma nạn, nhất là cứu độ cho vong linh được siêu thoát một cách tuyệt diệu và hy hữu, đưa người từ cõi Phàm đến cõi Thánh nhanh chóng, gần gũi cùng cảm ứng đạo giao với Phật, Bồ Tát, Thánh Thần và thành tựu được đạo quả.

     

    Còn Thần Chú của Tà đạo chỉ làm hại người, hại vật, gieo tai họa cho người, chết phải đọa vào 3 ác đạo.

    Thần Chú tuy không có thể giải nghĩa ra được, nhưng nếu chí tâm, thành kính thọ trì, thì sẽ được công hiệu kỳ diệu khó thể nghĩ bàn. Cũng giống như người uống nước, cảm giác ấm hay lạnh thì chỉ người đó tự biết – còn người khác thì không cách chi biết được, cũng không hiểu hoặc không tin được. Phần công hiệu của việc trì Chú cũng vậy, chỉ riêng người chuyên trì Chú mới biết rõ nó hiệu nghiệm như thế nào mà thôi !

    Thường thì một câu Thần Chú hay thâu gồm hết một bộ Kinh. Vậy cũng đủ hiểu hiệu lực, công đức của câu Thần Chú mà Phật nói ra không thể nghĩ bàn.

    Thí dụ như :

     

    1.              Bộ Kinh ĐẠI BÁT NHÃ gồm có 600 quyển, mà chỉ có một câu Thần Chú gom hết 600 cuốn Đại Bát Nhã. Đó là câu :

    Yết đế, yết đế ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.

    2.              Kinh ĐẠI BI TÂM ĐÀ RA NI kết lại hết 85 câu Chú :

    Án, tất điện đô mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.

    3.              Nguyên cuốn Kinh CHUẨN ĐỀ kết lại câu :

    Án chiết lệ chủ lệ chuẩn đề ta bà ha.

    4.              Kinh LĂNG NGHIÊM gồm có 9 cuốn, kết lại trong câu :

    Án, a na lệ tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàn ni phấn hổ hồng đô lô ung phấn, ta bà ha.

    5.              Kinh PHẬT ĐẢNH TÔN THẮNG ĐÀ RA NI v.v… thì cũng y như vậy.

    Lại nữa, phải nên biết :

    Câu CHÂN NGÔN (Thần Chú) đây thuộc về “bất tư nghì thần lực”.

    Còn :

     

    Câu NIỆM PHẬT thì thuộc về “bất tư nghì công đức”.

    Cả hai, một MẬT, một TỊNH đồng chung nguồn gốc mà sanh ra, đều có năng lực đưa hành giả về nơi Tịnh Độ (nói chung) và vãng sanh về cõi CỰC LẠC (nói riêng), chứ không phải :

    Trì Chú thì không được vãng sanh. Chỉ chuyên Niệm Phật mới được vãng sanh !

     

    Nay Tổ Sư Thích Thiền Tâm đã phối hợp cả hai phần (MẬT và TỊNH) lại thì sự kiến hiệu càng tăng thêm gấp bội. Cái tâm “lực” đưa tới Cực Lạc sẽ nhanh chóng, an lành không bị trắc trở.

    Như VÔ LƯỢNG THỌ NHƯ LAI Ðà ra ni,

    ·                                 Tụng một biến thì tất cả các tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác thảy đều tiêu diệt.

    ·                                 Tụng 3 biến, tất cả tội chướng đều được tiêu trừ.

    ·                                 Tụng 7 biến thì dù cho hàng thiện nam, tín nữ tại gia phạm giới căn bản, hàng Tăng Ni phạm tội tứ khí, bát khí và các trọng giới khác, đều trở lại được giới phẩm thanh tịnh.

    Hành giả khi kết Ấn tụng trì Thần Chú nầy liền được chư PHẬT phóng quang tụ nơi đỉnh đầu và được các Ngài nhiếp thọ.

     

    Tụng đến 1 vạn biến (10.000 lần), tâm Bồ Đề (tâm Phật) hiển hiện trong thân không quên mất.

    Người trì niệm dần dần thể nhập vào tịnh tâm tròn sáng, trong sạch, mát mẻ như trăng thu, tiêu tan hết tất cả phiền não. Khi lâm chung sẽ thấy đức A DI ĐÀ Như Lai, cùng với vô lượng trăm ngàn ức chúng BỒ TÁT đến vây quanh, an ủi, bao che và tiếp dẫn. Ðương nhân liền được sanh về một trong 9 phẩm sen ở cõi Cực Lạc. (Xin xem Kinh Niệm Phật Ba La Mật).

     

    Nói về LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƠN NGÔN:

    Um, Mani Padmé Hùm

     

    (Hán dịch theo Phạm-âm là : “Án ma ni bát di hồng ) tuy chỉ có sáu chữ ngắn ngủi thôi, nhưng oai lực lớn không thể nghĩ bàn (tương đương với oai lực của chú Đại Bi), vì cả 2 chú  (Đại Bi và Lục Tự Đại Minh) nầy là một sự “tổng hợp” của đức Quán Thế Âm Bồ tát cùng của rất nhiều chư Phật, đã mang hết cả “tâm ý” của Bồ Tát và của chư Phật, giúp cho chúng sanh giải tất cả nạn, tiêu ác nghiệp, dứt trừ bệnh nghiệp, được sự vô úy (không còn sợ sệt trước mọi hoàn cảnh) và được tất cả sự mong cầu (tương đương với “phước, đức” của mình, nhưng phải chánh đáng).

     

    Oai lực của chú ĐẠI BI và chú LỤC TỰ có thể dời non, lấp biển, chuyển nắng hạn thành mưa, chuyển gió bão thành nắng ấm, có khả năng đưa người ra khỏi địa ngục, và đưa người lên cõi Trời, cõi Phật, thoát khỏi 3 ác đạo.

     

    Thì ngoài “Bổn Tôn” (tức là vị chủ) của câu Thần Chú, Đức Quán Thế Âm Bồ Tátchư Phật ra, không ai hiểu được công năng và nghĩa lý ảo bí của nó (kể luôn tất cả các đại Bồ Tát khác ở 10 phương cũng không hiểu thấu được)...

     

    Có số người không hiểu rõ điều trên, nên đã phí công dịch giải ra nghĩa ý, vô tình làm mất đi phần công lực của Chú. Nhất là lại dùng tâm “phân biệt” (chú nầy đúng, chú kia sai, chú nầy mạnh, chú kia yếu, chú nầy dài chú kia ít. v.v…) mà trì Chú, thành ra trì Chú hoài mà vẫn không có kết quả gì mấy.

     

    Từ trước đến nay, các hàng Phật Tử Trung Hoa, Việt Nam, v.v... khi đọc tụng Thần Chú đều có chút phần hơi trại, so với Phạn Âm (tức âm của chữ Sanskrit, Bắc Ấn Độ), nhưng việc ấy không quan ngại gì, miễn là dùng “tâm chí thành, tin tưởng” khi trì niệm, thì cũng vẫn được hiệu nghiệm như thường.  

             

    Trong Kinh “Ðại Bi”, Đức Quán Thế Âm Bồ Tát có dạy :

    “Người nào đối với Ðà-Ra-Ni nầy sanh lòng nghi không tin, phải biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích...”

    Cho nên, muốn được hiệu nghiệm trên đường tu mật tông thì điều bí quyết là chớ nên khởi lòng nghi ngờ, phân biệt đúng sai, hoặc hiểu nghĩa hay không hiểu nghĩa, khinh báng chi cả. Dù cho lòng “nghi” ấy nhỏ như hạt bụi đi chăng nữa, quyết cũng “chẳng nên có”. Cứ một lòng chặt dạ y theo đó mà hành trì thì được gọi là trì Chú “đúng như pháp” vậy, vì chư Phật, Bồ Tát vốn không bao giờ vọng ngữ (nói lời dối gạt).  

     

    May mắn cho chúng ta trong kiếp này còn gặp được chánh pháp, còn học được chánh pháp, được minh sư thiện hữu chỉ dạy cho phương cách trì Chú để giải nghiệp tội. Nếu vẫn còn cố chấp không chịu tu, thì thử hỏi kiếp sau cái chấp sẽ còn nặng như thế nào ? Mà đã cố chấp thì khó mà có được trí huệ để làm được những điều tốt lành. Kiếp nầy đã có tâm bỏn xẻn, nghi kỵ rồi, kiếp sau hết phước, sẽ ra sao ?

     

    Cho nên, rất mong quý bạn đồng tu phải cố gắng lên, tinh tấn trì Chú, niệm Phật, và phải “tận tâm, tận lực, tận cường”, tu hành để chắc thêm phần vãng sanh cho mình, thì mới mong thoát ly sanh tử luân hồi, thành tựu được đạo quả. Làm được như vậy mới không phụ lấy chính mình, và trả được ơn sinh thành, dưỡng dục của Cha Mẹ nhiều đời nhiều kiếp, đúng với câu :

     

    Nhất nhân hành đạo cửu huyền thăng. Trước độ mình, sau độ người, và độ khắp thế nhân.”

     

    Chúng ta ai cũng muốn lo lắng cho cha mẹ mình luôn được đầy đủ phần vật chất. Nhưng, dù làm được trọn vẹn mấy đi nữa, cũng chỉ là trả “Tiểu Hiếu” mà thôi, vì đó chỉ là giúp cho Cha Mẹ tạm thời bớt khổ, chứ không cách chi giúp cho Cha Mẹ thoát khỏi sự khổ của sanh tử luân hồi. Chi bằng, nếu ta nỗ lực tinh tấn tu hành theo pháp môn Mật Tịnh nầy, lại biết khuyên Cha Mẹ, gia đình, bạn bè v.v… tu hành như mình, thì sẽ được vãng sanh về Cực Lạc trở thành bậc Bồ Tát sau khi mạng chung. Chừng đó thì quay lại cõi này để độ hết Cha Mẹ nhiều đời nhiều kiếp v.v… trả “Đại Hiếu” !

     

    Chúng ta đang trong thời kỳ Tháp Tự Kiên Cố bước qua thời kỳ Đấu Tranh Kiên Cố; Pháp diệt, Ma cường (thịnh). Tâm chúng sanh ngày càng thêm xấu ác. Phật đã huyền ký rằng :

     

    Trong thời kỳ Mạt Pháp nầy, tà sư “phá pháp” nhiều như cát sông Hằng (Kinh Lăng Nghiêm), ngoài ra còn có 96 ngoại đạo, tà giáo tìm đủ mọi cách để tiêu diệt Phật Giáo nữa, không cho một ai tu thành đạo cả. Tương lai sẽ không còn in kinh, thuyết chánh Pháp nữa. Hiện nay chúng ta cũng đã nhận thấy biết rồi, Phật Pháp đang bị phá hoại (tiêu diệt) một cách tinh vi và khéo léo đến nổi ít có ai nhận diện ra được.

    Nó khảo đủ mọi cách hết :

     

    ·                                 Nội khảo, ngoại khảo, thuận khảo, nghịch khảo…

    ·                                 Nó làm cho tâm tánh con người không còn NHÂN TÌNH nữa (càng ngày càng ác hiểm).

     

    Chúng ta khó thể nào có được tâm lực, chánh tâm, chánh trí, và chánh kiến. Hiện nay, tâm của con người bị ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng. Nào là tham lam, cố chấp, tranh đua, sân hận, dâm dật, v.v… vì thế, cho nên dẫn đến cả thế giới đang lầm than trong đau khổ, tai nạn, binh đao khói lửa, chiến tranh sớm muộn sẽ bùng nổ trong nay mai.

     

    Muốn biết trong tâm của chúng sanh như thế nào, thì cứ nhìn ra ngoài thế giới hiện nay ra sao sẽ biết liền. Bên trong tâm con người thì đầy phiền não, bên ngoài thì quá nhiều cám dỗ. Xã hội sao không động loạn cho được?

     

    Ma quỷ dựa nhập đầy đường, không bỏ sót một ai, chúng vô từng nhà, từng quán chợ, đi vào tâm thức của từng người (trong khi thức, cũng như trong lúc ngủ, mà nó biết mặt, biết tên, biết nhà v.v…) quấy phá khắp nơi trên thế giới. Nhà nhà khói đen bao phủ. Người người khổ sầu, ai oán…nên chiêu cảm đến bão lụt, khói lửa cháy lớn, thất nghiệp, đói khổ lan tràn, nhà tan cửa nát, mất nhà mất việc làm, bệnh tật ngày càng nhiều khó chữa trị v.v…

     

    Cũng vì do từ nơi TÂM xấu ác của con người mà phát sanh ra hết cả. Nếu như mọi người đều có cái tâm tốt, tâm an, tâm đầy lòng bác ái, thì gia đình sẽ được vui vẻ, thuận hòa, thế giới sẽ an bình, phồn thịnh. Dù cho Ma quỷ dữ cách mấy cũng chẳng làm gì được, đôi khi họ còn kính phục mà chịu quy mạng lễ !

    ĐỨC TRỌNG QUỶ THẦN KINH.

     

    Mong sao chúng ta mau buông bỏ những thói hư tật xấu, cố chấp của mình đi, mà sám hối lo tu sửa (từ xấu ra tốt), buông bỏ những việc vừa ý hay không vừa ý, đúng với sai v.v… để chuyển hướng nạn tai sắp xảy ra, hầu được an lành sống đến ngày trăm tuổi.

     

    Sư Tổ (Đại Ninh) THÍCH THIỀN TÂM đã thấy biết trước là sau nầy đa phần các Phật tử nói riêng và mọi người nói chung, đều bị tà ma dựa, nhập và bị khống chế, ít có ai tu mà được đầu thai lại làm người, thì đừng nói chi đến việc giải thoát về cõi Trời, cõi Phật.

     

    Với lòng từ bi quảng đại, Ngài mới khai mở ra pháp tu MẬT TỊNH, soạn ra những Thần Chú từ trong MẬT TẠNG (của Đại Tạng Kinh), hầu cứu độ các Phật tử có thiện căn (và chân thật tu hành) thoát khỏi Ma nạn, để giữ vững được đường tu, mới bảo đảm được vãng sanh về nơi Cực Lạc Tịnh Độ.

    Ai thật tâm tu hành bắt buộc phải kiêm thêm TRÌ CHÚ để hộ thân và tâm không bị khảo đảo mà lạc vào lưới của Ma, lấp đi con đường vãng sanh vậy.

    Như đã nói ở trên,

     

    ·                                 NIỆM PHẬT được bất tư nghì CÔNG ĐỨC

    ·                                 TRÌ CHÚ được bất tư nghì THẦN LỰC (cái lực nầy sẽ giúp cho ta thoát nạn khổ)

    Nếu chỉ chuyên NIỆM PHẬT mà không có TRÌ CHÚ đi kèm, thì cũng giống như người đang bị đủ thứ bệnh tật, kẻ ác bao vây tứ phương, ngày đêm chẳng được yên, mò mẫm, lê lết mà đi, không may gặp phải giặc cướp (Ma) ồ ạt xông đến bắt, chừng đó thì :

     

    ·                                 Không có TÂM LỰC (không biết dụng tâm)

    ·                                 Không có SỨC LỰC (để chống trả)

    ·                                 Không cóTRÍ LỰC (để phân biệt chánh tà)

    ·                                 Không có chút THẦN LỰC(nào để đề kháng) cả

    Lúc đó sợ quá, không còn nhớ niệm Phật nữa, á khẩu đứng tim mà chết. Vậy thần thức có còn được yên để về Cực Lạc không ?

     

    Từ bi phải có trí huệ đi kèm. Niệm Phật phải có Thần Chú đi kèm (hai cái nầy không thể thiếu một).

    Những người không có chánh tâm, không chân thật tu hành cần cầu giải thoát, hoặc có cái TÂM NGHI NGỜ, PHÂN BIỆT, XẤU, ÁC v.v… thì khó thể trì Chú cho được, sẽ dễ bị “tẩu hỏa nhập ma” (bởi vì Thần Chú đó là tâm ý của Phật nên thuần “CHÁNH”, nếu như đem cái tâm “TÀ” mà trì Chú thì không thể nào cảm ứng hoặc thành tựu được là như vậy). Cho nên, trong thời kỳ pháp diệt tận này, rất ít có người “dám” trì Chú, hoặc biết về Ấn Chú của Phật gia một cách tỏ tường.

     

    Thậm chí có nhiều người sợ không dám trì Chú, lại còn phỉ báng và ngăn cấm người trì Chú nữa. Nhưng họ không hiểu rằng :

     

    Chính  Đức PHẬT xưa kia cũng đã dùng Thần Chú để hàng phục Ma quân, và cứu đệ tử của Ngài ra khỏi Ma nạn! 

     

    Ta hãy thử hỏi :

    Người TU (trụ trì ở trong chùa) đã dùng Thần Chú gì để sái tịnh Chùa, sái tịnh hằng ngày cho bản thân (mỗi khi ăn, uống, tắm gội), cúng vong linh, cầu siêu, phát tang, xả tang, triệu hồn, thí thực, phóng sanh, cho đến công phu mỗi sáng v.v... ? Hỡi ôi ! Có được mấy người chịu TIN, chịu trì Chú, và thi hành đúng theo như điều luật của nhà Phật?

     

    Hiện nay, đa phần Phật tử chỉ thích tụng Kinh, niệm Phật cầu PHƯỚC qua ngày, hoặc thích ngồi Thiền hơn là Trì Chú (tức là tu theo MẬT TÔNG chân chánh của PHẬT) vậy.

     

    Muốn biết thể giới Quy Y Tam Bảo của mình còn hay mất, hãy xem lại cái tâm của mình (có làm những điều xấu ác, có gần gũi, hoặc thân cận với kẻ ác không) thì sẽ biết ngay. 

    Như là :

    ·                                 Tham tiền, tham danh, tham lợi.

    ·                                 Việc xấu nào mà không làm.

    ·                                 Thị phi nào mà không nói.

    ·                                 Không nói “có”, có nói “không”.

    ·                                 Nói xấu Phật, nói xấu người tốt.

    ·                                 Thường hay sân giận, tâm tánh ích kỷ, bỏn xẻn.

    ·                                 Thường ganh tỵ, đố kỵ

    ·                                 Tranh chấp phải quấy, thấp cao.

    ·                                 Cố chấp, hận thù không xả.

    ·                                 Tranh đấu không biết mệt.

    ·                                 Giành giựt cái tốt về mình.

    ·                                 Không biết ơn nghĩa, liêm sỉ.

    ·                                 Nhục mạ người chân tu.

    ·                                 Khinh sư diệt tổ.

    ·                                 Giết Thầy, hại bạn.

    ·                                 Dẫn dắt Phật tử tu sai lầm (không giống đường lối của Phật, của Tổ sư muốn dạy).

    Đó chỉ là lược ra sơ sơ ở trên cũng đủ thấy Tam Quy, Ngũ Giới đã là khó giữ nổi, thì nói chi đến Bồ Tát giới, Tỳ Kheo giới !!!Thần Thánh nào tiếp tục gia hộ cho mình đây ?!

    Thân hôi thì người đời lánh xa.
    Tâm hôi thì thần thánh lánh xa.

    Nếu như đã mất hết thể giới Quy Y rồi, thì tự động 25 vị Thần theo hộ cho mình cũng sẽ bỏ đi luôn. Chừng đó, Ma quỷ sẽ dễ dàng nhào vô làm hại, bắt hồn, bắt xác mà thôi...

     

    Có rất nhiều Phật tử chưa hiểu thấu, nên nghĩ rằng :

    Tu Tịnh Độ (niệm Phật) rất dễ, người (chánh hoặc tà) nào cũng tu được. Còn tu theo Mật Tông thì rất khó (trì Chú hoài cũng không thấy có kết quả gì cả),và người mà trì Chú sẽ khó thành được đạo quả v.v… !

    Hoặc là :

    Muốn về Cực Lạc mau, thì phải “chuyên” niệm Phật, không nên trì Chú. Vì tu hai pháp môn (Mật Tịnh) một lượt sẽ bị chi phối, không được nhất tâm, không được vãng sanh!

     

    Cho nên, hiện nay hầu hết Phật tử đã từng tu theo pháp môn MẬT TỊNH đều từ từ bỏ trì Chú (như Chú Hộ Thân, Lăng Nghiêm, Đại Bi, Bát Nhã, Vãng Sanh v.v…), cho đến bỏ đắp mền Tỳ Lô luôn nữa.

    Phải biết rõ thêm rằng, ba môn vô lậu học: Giới, Định, Huệ tượng trưng cho Giác, Chánh, Tịnh, và lại cũng tượng trưng cho Tam Bảo : Phật, Pháp, Tăng.

     

    ·                                 Phật nghĩa là “Giác Ngộ”.

    ·                                 Pháp tức là “Chánh Pháp”.

    ·                                 Tăng mang ý nghĩa “Thanh Tịnh”.

    Tu học Phật Pháp không ngoài ba môn Giác, Chánh, Tịnh nầy. Đây cũng ví như ba cửa Tam Quan trước cổng chùa, vào được một cửa là vào được nhà của Như Lai.

     

    Như Thiền Tông thì chủ trương thấy tánh thành Phật.

    Đây là theo môn “Giác” mà tu hành.

    Giáo Tông thì chủ trương nghiên cứu Kinh Giáo.

    Đây là theo môn “Chánh” mà tu hành.

    Mật Tông và Tịnh Độ đều giống nhau, vì đòi hỏi phải có tâm “Thanh Tịnh”.

     

    Đây là theo môn “Tịnh”mà tu hành. Ngoài ra, Tịnh Độ và Mật Tông đều là pháp môn “Nhị Lực”. Nghĩa là ngoài sức mình tu ra (tự lực), còn được nhờ vào “Từ lực” (tha lực) bổn tôn của Thần Chú và “Tâm lực” của chư Phật gia trì.

     

    Vì thế :

    Hai môn “Mật” và “Tịnh” song tu thì rất là “hạp” căn.

    Còn ngược lại :

    Hai môn “Thiền” và “Tịnh” song tu, thì không hạp (căn) được, trừ khi là người Thượng Thượng căn, vì một bên theo Không môn (Thiền), còn một bên theo Hữu môn (Tịnh).

    Cho nên, Mật Tông và Tịnh Độ đều khó như nhau và cũng đều dễ như nhau.

     

    Tại sao dễ ?

    Dễ vì câu "A Di Đà Phật" hay Chú "Um Brum Hùm", thì ai cũng trì được.

    Nhưng tại sao khó ?

    Khó bởi vì cả hai đòi hỏi người Trì (Chú), hoặc Niệm (Phật) đều phải có được cái tâm trong sáng, thì mới có thể phát sinh ra được “tâm lực”, rồi từ tâm lực đó dần dần mới có được “thần lực.”

    Chính cái “tự lực” này mới phụ với “tha lực” của Đức Phật A Di Đà mà đưa mình về Cực Lạc được.

     

    Nhờ có Tâm lực trong sáng mới bắt được làn sóng của chư Phật, Bồ Tát, mới cảm ứng đạo giao, mới giải nạn Thiên tai, và được tiếp dẫn vãng sanh.

     

    Còn như, nếu dùng cái tâm phân biệt, tâm phan duyên, tâm cố chấp, tâm xấu ác mà niệm Phật thì sẽ bắt nhằm phải làn sóng của Ma, khiến cho Ma Quỷ kéo đến đầy nhà, bệnh tật kinh niên, khảo đảo không ngừng, gia đình bất an, sở cầu không được như ý v.v... Dù niệm Phật bể cổ cũng không được vãng sanh, trái lại còn làm “oan gia” trong cửa đạo (vì vô tình đã tiếp tay với kẻ ác tiêu diệt Phật Pháp mà ngay chính mình không hề hay biết, cứ tưởng rằng mình đang làm Phật sự!)

     

    Phải biết :

    Cả hai, một MẬT, một TỊNH đồng chung nguồn gốc mà sanh ra. Nay phối hợp cả hai phần (MẬT và TỊNH nầy) lại thì sự thành công càng tăng thêm gấp bội.

     

    Trong bộ Luận Đại Trí Độ, Ngài Cưu Ma La Thập có giảng rõ :

    ·                                 Trì Chú có nghĩa là gìn giữ và bảo vệ.

    ·                                 Gìn giữ là gom góp các pháp lành không cho tan mất.

    ·                                 Bảo vệ là ngăn ngừa tâm bất thiện không cho phát sanh.

    ·                                 Trì Chú là giúp tăng trưởng Huệ lực, Thần lực.

    ·                                 Duy trì tâm lực, bảo tồn chân khí

    (như người bị mất hết chân khí sẽ bị bệnh hoài, thân tâm thường mệt mỏi, ngày càng kiệt sức, trí huệ mê mờ, không còn tự chủ, dễ bị Ma quỷ dựa nhập).

    ·                                 Người trì Chú có được chánh tâm, chánh ý.

    ·                                 Thống nhiếp và duy trì vô lượng Phật Pháp, khiến không bao giờ hoại diệt.

    Khi trì Chú, tay nên kết Ấn, miệng trì Chú (trì cho ra tiếng), mắt nhìn tượng Phật, tâm quán (nhớ tưởng) chữ Rảm (chủng tử biểu tượng cho bản thể của chư Phật).

     

    Pháp môn Trì Chú giúp cho người tu “phát sanh trí huệ” để kiểm soát được hành động, lời nói, ý nghĩ và phân biệt được rõ ràng đâu tà, đâu chánh. Như vậy thì hành động, lời nói và ý nghĩ sẽ trở nên trong sáng, vọng niệm tự nhiên không khởi. Không khởi niệm phân biệt, giữ tâm trong sáng thì mới phát sinh ra được “đạo lực” (cái lực nầy mới có khả năng độ mình, độ người giúp giải được nạn Thiên tai và được giải thoát).

     

    Cách niệm Phật, trì Chú lớn tiếng nầy gọi là “Bố Ma” (làm cho ma khiếp sợ mà bỏ chạy), nhiếp được thân, khẩu, ý trong sáng và có được những lợi ích đặc biệt sau đây:

    1.  Diệt được sự buồn ngủ, hôn trầm

    2.  Tâm không tán loạn

    3.  Chuyện đời chẳng lọt vào tai

    4.  Có cặp mắt sáng

    5.   Tiếng nói rổn rảng, mạnh mẽ, cứng chắc, đầy thần lực

    6.  Có tướng đi mạnh mẽ, oai phong

    7.   Lời nói thẳng thắn, mạnh dạn

    8.   Tâm thần cương trực, không nhút nhát, không sợ sệt, xông pha vô trận hàng phục ma quân

    9.  Dõng mãnh, tinh tấn

    10. Tâm lực, thần lực phát sanh ra cực mạnh

    11. Bệnh nghiệp được tiêu trừ

    12.  Tứ Đại điều hoà

    13.  Tâm thể an nhiên

    14. Khi trì Chú phát ra vòng hào quang bao phủ quanh thân người trì Chú

    15. Bùa ngải, độc trùng, gió độc không xâm phạm đến thân mình được

    16. Thiên Ma phải nể sợ

    17. Vong linh vất vưởng chung quanh nghe được âm thanh của Thần Chú đều được siêu thoát

    18. Côn trùng, chuột, kiến, gián, nhện, bọ, tự động đi mất, hoặc được thoát kiếp hết

    19.  Những vong linh hữu duyên, và cửu huyền cũng được siêu thoát

    20.  Thiên Long Hộ Pháp luôn ở bên cạnh hộ trì, an ủi, nhắc nhở, chỉ dạy v.v...

    21. Tất cả sở cầu đều được như ý

    22.   Danh tiếng từ từ vang khắp mười phương

    23.  Tam Muội hiện ra trước mắt

    24. Mười phương chư Phật, chư đại Bồ Tát đều vui mừng thọ ký

    25.  Lâm chung chánh niệm, biết trước ngày giờ, vãng sanh Cực Lạc quốc.

    Tu tập theo pháp môn Mật Tịnh tức là “luyện” cho thân tâm được thuần thục, nó đòi hỏi người tu một sự tha thiết, quyết tâm xả bỏ những tâm xấu, luôn mong cầu được giải thoát, chứ không phải là "có căn" (Mật) mới tu được. Nếu căn cơ cao, tâm đã tịnh, thì cần chi phải tu (niệm Phật, hay Trì Chú) ?

    Ở phần trước đã có nói:

     

    Muốn đạt được kết quả tốt đẹp trên đường tu mật tông thì điều tiên quyết là chớ nên khởi lòng nghi ngờ, khinh báng chi cả. Dù cho lòng “nghi”, “chấp” ấy nhỏ như hạt bụi đi chăng nữa, quyết cũng chẳng nên có. Cứ một lòng chặc dạ y theo đó mà hành trì thì được gọi là “đúng như pháp” vậy! Vì chư Phật, Bồ Tát quyết không bao giờ vọng ngữ (nói lời dối gạt)!

     

    Cho nên, muốn bảo đảm được vãng sanh trong kiếp nầy, song song với niệm Phật ta cần phải kiêm thêm phần Trì Chú, mới giải được sự khảo đảo (khi oan gia) kéo đến, và chắc thêm phần vãng sanh cho chính mình.

    Hai chữ MẬT TỊNH nầy hàm ý là:

     

    Người tu phải TRÌ CHÚ (Mật) trước, rồi mới NIỆM PHẬT (Tịnh) sau. Tại sao ? Vì khi trì Chú sẽ tạo ra cái LỰC (để giúp cho thân nhẹ nhàng, Khẩu thanh tịnh, Ý trong sáng), như vậy khi NIỆM PHẬT mới được trọn vẹn công đức. Nếu luôn hành trì như vậy, giữ tâm trong sáng như vậy suốt đời thì chắc chắn sẽ được vãng sanh, vĩnh viễn thoát ly sanh tử luân hồi. 

     

    (Nên xem Kinh “Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương” để  biết rõ thêm về công năng của Thần Chú, sự lợi ích của Mền Tỳ Lô, mặc áo Chú, đeo Chú, vẽ Chú, và mật hạnh của người thọ Bồ Tát giới (để cứu độ chúng sanh) và công đức về việc “trích máu tả Kinh” v.v…)

     

    Tóm lại :

    Muốn HÓA GIẢI  ĐƯỢC THIÊN TAI  và THOÁT ĐƯỢC MA NẠN, bình yên tu hành cho đến ngày VÃNG SANH, bắt buộc phải hành trì Pháp môn Mật Tinh song tu.

     

    NIỆM PHẬT nhưng trong Tâm không rời tiếng Chú, lúc nào cũng vang rền bên tai (trong nhà nên mở máy trì Chú suốt ngày, đêm)          

    Câu thần Chú “thay cho tiếng lệnh của chư Phật và Bồ Tát”, nên có công năng giải nghiệp nạn không thể nghĩ bàn, giúp HỘ THÂN KHÔNG BỊ NẠN TAI (nước, lửa, bão lụt, kẻ ác làm hại, bùa ếm, ma quỷ, không làm hại được đến thân của người đang trì Chú nầy).

     

    Hễ “hóa giải” được cho mình bình an, thì sẽ giúp cho những người chung quanh cũng được bình an, thoát nạn. Tất cả Thiên Tai, chiến tranh, khói lửa đều do TÂM của chúng sanh chiêu cảm ra hết cả.

    Vì chúng sanh thường hay có :

    ·                                 TÂM SÂN dữ tợn, nên chiêu cảm ra LỬA dữ.

    ·                                 TÂM MONG CẦU, THAM LAM, nên chiêu cảm ra MƯA, BÃO LỤT, SÓNG THẦN

    ·                                 TÂM SÁT, ẾM HẠI NGƯỜI, nên chiêu cảm ra CHIẾN TRANH, KHÓI LỬA

    ·                                 TÂM SI MÊ, nên chiêu cảm ra GIÓ SOÁY, GIÓ  BÃO, và trùng trùng điệp điệp những cái khổ đến, sẽ không giản dị, không dễ dàng đối phó.

    Bởi vì tất cả Thiên Tai gây ra đều do nơi TÂM ÁC của chúng sanh. Bởi Tâm chúng sanh càng ác, càng dữ, càng có nhiều sáng kiến, nhiều thủ đoạn, càng phát minh, thì hậu quả sẽ càng “đập lại” chúng sanh không thương dị.

    "10 phương chư Phật và hằng hà sa số Bồ Tát đang hiện thân bao phủ cõi Ta bà (của chúng ta), nhưng không làm sao ngăn chận được làn sóng thần đen kịt đang ồ ạt kéo đến một cách dữ tợn…”

    Muốn HÓA GIẢI được Thiên tai, thì cũng phải từ nơi TÂM “thiện” của chúng sanh mà TU SỬA, SÁM HỐI, TRÌ CHÚ, và ngưng làm ác.

    Rồi :

    ·                                 Dùng “LỰC THIỆN” trong tâm mình “quán” vang xa ra để hóa giải những điều hung ác.

    ·                                 Dùng “LỰC THANH TỊNH” từ nơi tâm để hóa giải những sự biến động.

    Ngồi tại nhà TRÌ CHÚ vẫn giải được nạn tai cho chúng sanh.

    Nên hiểu rằng, Phật chỉ độ người hữu duyên. Chư Phật, Bồ Tát chỉ giúp cho những người có căn lành TU SỬA và HOÁN CHUYỂN TÂM TÁNH, thường xuyên kiểm tâm, hành trì điều thiện; như vậy các Ngài mới có thể giải nạn tai được.

     

    Cho nên Phật, Bồ Tát không thể nào CỨU ĐƯỢC NHỮNG CHÚNG SANH CÓ TÂM ÁC.

    Cũng như Ma Vương, không thể nào đứng giữa hư không để “tiêu diệt” được hết những chúng sanh có tâm chí thành, tu hành chân chánh !

    ·                                 Ma Vương không hại được người có tâm lành, tu hành chân chánh.

    ·                                 Phật, Bồ Tát không cứu được người có cái Ác Tâm.

    ·                                 Phật và Ma Vương cũng đều nương theo tâm thiện, tâm ác của chúng sanh mà thôi.

    BỒ TÁT cùng với chư PHẬT khắp 10 phương đều nghe, đều thấy hết những tiếng kêu cứu, những lời than khổ của chúng sanh, nhưng không cách nào cứu được họ, vì phải do TÂM CỦA CHÚNG SANH đó THA THIẾT, THẬT LÒNG MUỐN CỨU.

     

    Những người thật lòng kêu cứu, đều đã được Bồ Tát ra tay cứu độ cho họ được tai qua nạn khổ rồi (số chúng sanh được cứu thì rất là ít oi). Còn số người đang và sẽ bị nạn tai, khói lửa trong tương lai nhiều không kể xiết. Xác người chết như bèo trôi sông vậy.

    Chư Phật, Bồ Tát chỉ đành biết lấy mắt nhìn mà rơi lệ. Vì quý Ngài không thể cứu độ chúng sanh có những TÂM quá ác độc được.

     

    Chiếu đúng theo luật thì gieo NHÂN nào, hái QUẢ đó.

    Cho nên, mỗi khi Thiên Tai đến với mình, thì đừng nên trách Trời, Phật chi cả cho mang thêm tội,  mà hãy dùng 2 tay đập vào đầu mặt mà chửi mắng mình “sao mầy ác quá vậy, để bây giờ phải trả quả ác, không ai cứu được cả !”

     

    Lành, dữ, thiện, ác, siêu, đọa, họa, phước đều do nơi TÂM cả. Hễ giữ được cái Tâm vui vẻ, thì trong nhà ảnh hưởng sự mát mẻ, nhẹ nhàng, công ăn việc làm yên ổn. Còn như trong Tâm mang nhiều phiền não, chấp nhất, bực bội thì trong nhà bị khí đen bao phủ, nặng nề, bệnh hoạn, công ăn việc làm bị trắc trở, vợ chồng gây gổ v.v… TÂM của một người đã ảnh hưởng như vậy rồi, thì nói chi đến nhiều cái Tâm ÁC cộng lại, sẽ ảnh hưởng như thế nào?

     

    Hễ TÂM chúng sanh an bình, vui vẻ thì cả thế giới cũng sẽ an lành, bình yên, mưa hòa, gió thuận. Điều này được chứng minh qua một câu chuyện tại Hoa Thịnh Đốn có “4 ngàn cái TÂM an bình” :

     

    Cách đây 20 năm về trước, Tạp chí Khoa học của Mỹ đã tuyên bố một nghiên cứu thí nghiệm xã hội học lần đầu tiên được thực hiện tại Đại Học Maryland, thuộc vùng Washington DC. Mùa hè vào năm 1993, có 4 ngàn người từ khắp thế giới (81 quốc gia) ghi danh tham dự khóa TU “THIỀN MẬT” (Thiền định của sự TRÌ CHÚ) suốt 2 tháng. Họ dạy cho 4 ngàn người nầy phương cách TRÌ CHÚ để giúp cho ĐỊNH cái TÂM của họ, hầu có thể làm giảm “ẢNH HƯỞNG” và “NGUỘI” bớt đi những việc ác, hành hung, giết người, hãm hiếp, cướp giựt, bạo lực và kẻ tội phạm v.v… đã xảy ra cực mạnh tại Washington, DC trong thời điểm đó.

    Kết quả trong 2 tháng là: Họ đã phát hiện ra và cho thấy rằng: tỷ lệ tội phạm, bạo lực trong đó bao gồm luôn việc giết người và hãm hiếp – đã được giảm xuống 23% trong thời gian thử nghiệm cái ĐỊNH TÂM của 4000 người.

     

    Nhà Vật lý học Tiến Sĩ Hagelin đã từng nghiên cứu trước đây cho biết rằng :

    “Những kỹ thuật Thiền Định và Trì Chú giúp tạo ra một trạng thái “thư giãn” sâu sắc. TÂM LỰC của 4000 người tham gia tạo ra một làn sóng AN BÌNH, NHẸ NHÀNG và DỊU MÁT đã ảnh hưởng đến môi trường TRẬT TỰ chung quanh và ảnh hưởng luôn đến những người khác (mà không hề biết và không tham dự trong cuộc thử nghiệm này).Tâm Lực của 4000 người này hợp lại đã tạo ra động tác “HIỀN HÒA” chiêu cảm và ảnh hưởng đến “khí hậu” cho đến số “phạm nhân” trong xã hội cũng được “yên lành”.  Kết quả cho thấy sự cảm ứng của lãnh vực về “Tâm Thức” (Học) mạnh không thể nghĩ bàn.”

     

    Những sự chết chóc, khổ nạn, bạo lực gây ra bởi sự “căng thẳng” cực mạnh từ trong “Cộng TÂM” của chúng sanh mà ra.

     

    Người đã chết rồi, cũng còn mang nghiệp cũ, đầu thai lại tạo thêm nghiệp mới, và cộng thêm nghiệp chung của môi trường trong xã hội. 3 cái nghiệp cộng lại quá nặng, nên rất khó tìm cầu giải thoát cho được.

    Các nhà khoa học gia như Edison và Marconi cũng đã chứng minh cho ta thấy những làn sóng (của điện, radio) có khả năng chuyên chở ánh sáng và âm thanh, thì Tâm lực của chúng sanh cũng vậy. Mỗi khi phát lên tiếng trì Chú (với tâm trong sáng), lập tức hào quang của tâm Chú này phát sáng ra chuyên chở cái Tâm lực của người đang trì Chú, và người trì Chú đó cũng đang chuyên chở hết Tâm ý của BỒ TÁT, và luôn cả Tâm lực của PHẬT, lập tức vang ra xa, HÓA GIẢI hết tất cả biến động chung quanh, tai qua, nạn khỏi, mọi việc bình an.

     

    Tóm lại, Phật tử tu Mật tông  cần phải nên biết rằng :

    Đức QUÁN THẾ ÂM Bồ Tát cùng với chư Phật vì thương chúng sanh, nên đã ban cho chúng ta một kho tàng vô tận, mà chúng sanh không biết xử dụng đúng chỗ, đúng như pháp, nên không được lợi ích và cảm ứng chi cả.

     

    Người đời không hiểu rõ công năng biến hóa thù thắng và thần lực cao siêu vô cùng tận của Chú, nên đã khởi tâm tà, lạm dụng “Ấn, Chú” của Phật, của Bồ Tát (để khống chế người, hãm hại người lành, làm trái ngược với “Tâm từ bi” và khắc với “Tâm ý” của Phật, của Bồ Tát), thì nó sẽ phá tác rất nhiều, hậu quả (đọa đày) cũng sẽ vô cùng tận !

    Phải cẩn thận điều nầy.

     

    Người đời có quá nhiều thứác tâm, tham, sân lẫy lừng và thường mong cầu (toàn những sự việc mà không thể nào ban cho được), lại lười biếng không chịu tự bản thân tìm cầu học hỏi chi cả, không chịu tu tập, không chịu hành trì đúng theo chánh pháp (của Phật dạy), không chịu bố thí, không chịu làm những điều thiện, chỉ muốn tất cả tiền tài, danh lợi và mọi sự ham ưa phải rơi vào hết trong tay của họ mà thôi. Họ đã không sợ chết, không sợ tội, không sợ đọa đày, không sợ hậu quả nên thẳng tay giết hại người nhiều không kể xiết chỉ vì một chút hư danh!

     

    Nhiều người không biết rằng:

    Tất cả thần Chú của Phật của Bồ Tát rất là diệu dụng, xem như là một câu thần chú “như ý”, có công năng cứu người ra khỏi tất cả sự khổ nạn, đưa người thoát khỏi cảnh đọa đày, giải thoát ra khỏi 3 cõi, 6 đường, chứ không thể làm trái ngược lại theo những tâm ác của người đời được, sẽ bị quật ngược trở lại phá tác ngay; thì kết quả sẽ không tốt. Hễ khởi những tâm ý xấu, ác muốn hại người như thế nào, thì sẽ chuốc lấy hậu quả y như vậy.

     

    “Ngậm máu phun người dơ miệng mình,” cũng giống như ngước mặt lên trời mà phun nước bọt vậy.

    Vì thế, người trì chú Hộ thân, chú Đại Bi, chú Lục Tự Đại Minh và những chú khác (của chư Phật, chư Bồ Tát) bắt buộc phải có lòng thành kính, tâm ý phải thanh tịnh và trong sạch để trì Chú, chỉ được mong cầu những điều tốt đẹp cho người, ích lợi cho người, cứu độ cho người thoát khỏi cảnh khổ,  chướng nghiệp khảo đảo,  nạn tai đang xảy ra khắp nơi,  nếu có tâm ý tốt tạo phương tiện và dẫn dắt người tu tập theo chánh pháp v.v… thì mới xử dụng Ấn Chú được cho bất kỳ một trường hợp nào (không có mang lỗi).

     

    Tà nhơn thuyết chánh pháp, chánh pháp biến di tà,
    Chánh nhơn thuyết tà pháp, tà pháp xu bội chánh.

     

    Khi trì Chú, phải giữ lòng trong sạch, hạnh Bồ Tát, lòng Từ Bi phát khởi thì mới có thể phát huy được TÂM LỰC, THẦN LỰC sẽ bay xa ngàn dặm, tâm ý trong sáng của người đang trì chú đến tận 10 phương chư Phật, sẽ được hằng hà sa số chư Phật, chư đại Bồ Tát phóng quang chiếu sáng bao bọc cho người đó, thì đâu sợ gì không được cảm ứng đạo giao, đạo lực ngày càng thêm thăng tiến, sở cầu luôn được như ý. Mọi việc từ trong gia đình (thân tộc) cho đến việc ngoài đời cũng đều được tốt đẹp hết cả.

     

    Lòng “thương” của chư Phật, của đức QUÁN THẾ ÂM Bồ tát (nói riêng) và chư đại Bồ Tát ở khắp 10 phương (nói chung) đối với chúng sanh vô bờ bến.

     

    Quý Ngài luôn cảm nhận được tất cả tâm ý của chúng sanh, nhưng TÂM của chúng sanh không được trong sạch, Ý(tưởng) rất là không lành và luôn bị che lấp bởi những điều sái quấy, sân hận lẫy lừng, tham danh, đoạt lợi, hại người lành một cách dữ tợn, do đó mà không thể nào giao cảm được với chư Phật, chư Bồ Tát.

    Quý Ngài chỉ biết yên lặng đứng nhìn mà rơi lệ, Bồ Tát kề cận với một chúng sanh đang đau khổ, đang trong hoạn nạn, mà không thể nào giao cảm được cả, cũng không thể nào cứu độ được cho những chúng sanh đó.

    Bồ Tát rất đau lòng vì muốn giảng giải, muốn chỉ rõ cho chúng sanh hiểu cũng rất khó, vì lời dạy của Bồ Tát không thể nào lọt hết vào tai của chúng sanh, nên phải mượn tay người để cứu người là như vậy.

     

    Cho nên người mà chuyên tâm, nhất tâm trì Chú, xem như có Bồ Tát đang đứng trước mặt, mà chân thành sám hối và tu sửa thân tâm được trong sạch, thì sẽ đạt được cái “Tâm lực, Trí lực, Thần lực” cực mạnh, sẽ được cảm ứng đạo giao với PHẬT, với BỒ TÁT. Điều này không có gì là khó tin, khó hiểu cả.

    Mây tan vầng nguyệt rạng, nước cạn trái châu bày, Tâm trong sáng thì Phật hiện. Thiên tai cũng không nổi  lên được.

     

    Một khi tâm (căng thẳng) của chúng sanh lắng xuống, tâm được AN rồi, sẽ phát khởi được cái Tâm “từ bi hỷ xả” (không còn ác, tham lam, sân hận, đố kỵ, ganh tỵ và chấp nhứt nữa). Mọi người sẽ trở thành một cái máy phát trật tự và hòa bình trong xã hội, an vui mãi mãi.

     

    Nếu chúng sanh tập phát khởi “thiện tâm” nhiều hơn, nhất dạ hành trì pháp môn “Mật Tông Tịnh Độ”(song tu)do cố Hòa Thượng THÍCH THIỀN TÂM khai sáng, và thực hành y theo lời dạy của Quán Thế Âm Bồ Tát, thì sẽ giải được Thiên Tai, vàbảo đảm cho bước đường “giải thoát”cùng“vãng sanh”ngay trong đời này.

    Nam Mô A DI ĐÀ PHẬT tác đại chứng minh

    Read more »
  • TỪ ÁI VÀ BI MẪN TRONG HÀNH ĐỘNG

    SAU KHI PHÁT SINH tinh thần Giác Ngộ - tâm bồ đề, quý vị tiếp theo thọ nhận những sự thực hành Bồ tát thật sự. Chư Bồ tát ngưỡng mộ đạt đến thể trạng toàn giác. Như chúng ta đã thảo luận, đây là điều gì đấy sinh khởi từ những nguyên nhân và điều kiện[1]. Nhưng chúng ta cần một tập hợp hoàn hảo và đúng đắn của những nguyên nhân và điều kiện, một tập hợp bao gồm nhiều sự thực tập. Long Thọ tóm tắt chúng trong một kệ hồi hướng trong 60 Kệ Tụng Lý Trí: "Nguyện, qua đức hạnh này, tất cả chúng sanh tập hợp hai tích tập và trên căn bản ấy đạt được hai hiện thân của Quả Phật"[2]. Ngài diễn tả những tích tập của phước đức và tuệ trí như những nguyên nhân của Quả Phật; khi chúng ta chi tiết những gì điều này liên hệ, thì chúng ta có giáo huấn về 6 ba la mật. Cũng thế, nếu chúng ta chi tiết ba la mật thứ sáu, tuệ trí ba la mật, thế thì chúng ta có thêm 4 ba la mật, làm thành tất cả 10 ba la mật.

    Giải thích sự thực tập 6 ba la mật, Tông Khách Ba (2:85) dạy rằng chúng ta phải rèn luyện trong 6 ba la mật sau khi phát triển tinh thần Giác Ngộ. Chúng ta không trở thành những vị Phật qua hoặc là phương pháp(5 ba la mật đầu) hay tuệ trí mà thôi. Chúng ta cần cả hai khía cạnh của con đường tu tập; chỉ qua việc kết hợp hai khía cạnh này mà có thể tích tập những nguyên nhân và điều kiện cần thiết cho việc đạt đến Quả Phật toàn giác.

    Trong 6 ba la mật, đối với những ai chính yếu gắn  liền với phía phương pháp của con đường tu tập - bố thí, trì giới, v.v… - cốt lõi là sự phát triển và đào sâu một cách thực tiển mong ước, nguyện vọng, của chúng ta để giúp đở người khác. Trong trường hợp của bố thí, ví dụ thế, hành động thực tế của việc ban cho là quan trọng, nhưng những gì thiết yếu là việc làm cho kiên cố động cơ, mục tiêu, và xu hướng của hành giả để ban cho. Năng lực chính mà quý vị đang sử dụng và vì thế việc củng cố là một loại nguyện vọng. Đồng thời, để những khía cạnh phương pháp  này của con đường tu tập hiệu quả, thì quý vị cũng cần năng lực của tuệ trí bởi vì nó đem vào sự thực tập của quý vị một cảm nhận tự tin hay một cách chắc chắn nó làm nổi bật rất tuyệt sự thực tập của quý vị về bố thí, v.v…

    Giống như thế, khía cạnh tuệ trí của con đường tu tập phải được bổ sung bởi khía cạnh tuệ trí của con đường. Thí dụ, nhằm đề biết tánh không, chúng ta phải làm tâm thức và trái tim chúng ta dễ lãnh hội sự thực chứng như vậy. Để làm điều này, quý vị phải dấn thân trong những thực tập làm tịnh hóa tâm thức quý vị và làm mạnh đức hạnh của quý vị. Trong những cách này, hai khía cạnh của con đường - phương pháp và tuệ trí - thật sự bổ sung cho nhau. Mỗi thứ củng cố và làm nổi bật sự phát triển cho thứ kia. Phía phương pháp giúp hành giả chuẩn bị tư tưởng để thực chứng tánh không và rồi thì làm nổi bật sự thực chứng ấy sau khi nó sinh khởi. Trong chi tiết, khía cạnh phương pháp của con đường bảo đảm rằng tuệ trí của hành giả hiểu biết tánh không có thể trở thành một phương pháp hóa giải đầy năng lực đến những chướng ngại vi tế ngăn trở sự toàn tri và vì thế có thể phục vụ như một nguyên nhân cho sự Giác Ngộ hoàn hảo của một Đức Phật. Khi quý vị quán sát vấn đề chư Bồ tát tiến triển từ trình độ này đến trình độ khác, thì ấy là tiến trình thật sự xảy ra trong định - tuệ thiền cân bằng về tánh không. Thế nên, phẩm chất của tuệ trí này quyết định vấn đề hành giả có thể tiến xa đến mức độ nào; trong ý nghĩa này, thì tuệ trí là nguyên nhân chính và phương pháp bổ sung cho nó (phương pháp là 5 ba la mật trước).

    Sáu Ba La Mật

    Trong việc giải thích sáu ba la mật, Tông Khách Ba (2:104-111) thảo luận chi tiết tại sao chúng là rõ ràng và chính xác trong số 6. Khi một luận điển diễn tả một chiều kích nào đó như cố định và rõ ràng, thì chúng ta phải coi như điều này có thể được nói trong hơn một ý nghĩa. Thí dụ, hai chân lý (nhị đế) - quy ước và cứu kính - là một chiều kích hoàn toàn thấu đáo của tri thức của tất cả mọi đối tượng; con số thật sự cố định và nó là hoàn toàn. Nhưng trong trường hợp của Bốn Chân Lý Cao Quý, vậy thì vị thế đã quyết định của con số 4 liên hệ đến chính mục tiêu đặc thù của giáo lý. Nó là con số cố định trong phạm vi ấy, cho một mục tiêu đặc thù. Cảm nhận của tôi là việc liệt kê rõ ràng của sự hoàn hảo như số 6 là tương tự. Nó không là một danh sách toàn diện như hai chân lý. Nó là một con số cố định nhưng cố định trong mối quan hệ đến những mục tiêu đặc biệt của một giáo lý đặc thù. Đôi khi một vị thầy thấy rằng một danh sách cố định với một con số đã định rõ về những thành phần là hiệu quả nhất trong việc xua tan những hiểu biết sai lầm nào đó.

    Bố Thí

    Bố thí đứng đầu trong danh sách sáu ba la mật. Tông Khách Ba (2:113-126) đưa ra một giải thích thẳng thắn về chủ đề rất quan trọng này. Chúng ta cần quán chiếu trên điều này và đem giáo lý vào việc thực tập.

    Điểm quan yếu này là để chắc chắn rằng sự ban cho của quý vị sẽ làm lợi ích cho người khác. Để đạt được mục đích ấy, chúng ta phải xem những gì thích đáng để ban cho, khi ban cho, và v.v… Tông Khách Ba (2:122) liệt kê ba hình thức chính của ban cho; ban cho những thứ vật chất (tài thí), ban cho sự bảo vệ khỏi sợ hãi (vô úy thí), và ban cho giáo Pháp qua giáo huấn tâm linh (pháp thí). Thí dụ, nếu quý vị biết lưu ý rằng động cơ của quý vị là đúng, thế thì việc bảo vệ môi trường có thể là một thí dụ của loại bố thí thứ hai, ban cho sự bảo vệ. Việc làm của những nghề nghiệp chăm sóc, kể cả bác sĩ và y tá, cũng có thể trở thành một hình thức của việc ban cho sự bảo vệ khỏi sự sợ hãi.

    Khi những giáo sư và giáo viên diển giảng, điều này có thể là một hình thức của bố thí, ban cho giáo huấn tâm linh. Nhưng nếu động cơ của họ chỉ là để được lãnh lương, thế thì nó không là bố thí thật sự. Nó là một giao dịch thương mại giống như bất cứ loại thương mại nào khác. Ngay cả nếu Đạt Lai Lạt Ma diễn giảng vì mục tiêu nhận được một món tiền nào đó, thế thì đó cũng chỉ là một thỏa thuận thương mại, không phải là một hình thức của bố thí. Có một lần, một vị đạo sư Nyingma thực hiện ba lời nguyện: không bao giờ cởi thú vật, không bao giờ ăn thịt, và không bao giờ nhận bất cứ sự cúng dường vật chất nào như kết quả của việc giảng dạy giáo pháp. Ngài giải thích rằng lấy tiền vì giảng dạy giáo pháp giống như làm thương mại - một loại thương  mại xấu. Một cách truyền thống, buôn bán giáo pháp đã được xem là một loại thương mại rất tệ hại.

    Trì Giới (Nguyên Tắc Đạo Đức)

    Tông Khách Ba (2:148) giải thích rằng ba la mật thứ hai - trì giới ba la mật - là ba loại chính: tự mình tránh những hành vi tổn  hại, tập hợp đức hạnh, và hành động vì lợi ích của người khác. Có một trình tự tự nhiên trong ba thứ này: tiến hành tự kềm chế, xuyên qua tập hợp đức hạnh, và rồi thì hành động vì người khác.

    Nếu một vị Bồ tát có những thệ nguyện giải thoát cá nhân, chẳng hạn như những thệ nguyện [giới điều] của cư sĩ hay tu sĩ, thế thì việc quán chiếu những điều này cấu thành loại thứ nhất của trì giới, đạo đức của việc kềm chế. Khi một vị Bồ tát không có những thệ nguyện chính thức, thế thì nguyên tắc đạo đức của việc kềm chế có nghĩa là kiêng tránh khỏi mười điều bất thiện[3]. Nó cũng bao gồm việc đề phòng chống lại những tư tưởng vị kỷ. Việc tự kềm chế mình khỏi những hành vi tổn hại sẽ chuẩn bị cho quý vị phát triển một trái tim đức hạnh.

    Tập hợp đức hạnh, loại trì giới thứ hai, có thể bao gồm tất cả những sự thực hành đưa đến việc phát triển nhiều khía cạnh của con đường tu tập, kể cả những sự thực hành liên hệ tánh không thậm thâm và những sự thực hành rộng rãi của bi mẫn và phương tiện thiện xảo. Khi tâm thức quý vị trở thành mạnh mẽ trong đức hạnh, thì quý vị sẽ có thể mang lợi ích đến cho người khác tốt đẹp hơn.

    Trong việc giải thích trì giới của việc hành động vì lợi ích của người khác, Tông Khách Ba (2:148) đề cập 11 hình thức của việc phụng sự. Ngài không chi tiết hóa chúng ở đây trong Đại Luận, nhưng chỉ chúng ta tham khảo đến tác phẩm Lộ Trình Tỉnh Thức Căn Bản của ngài, trong ấy luận giải chương trì giới của quyển Những Trình Độ Của Bồ Tát (Bồ tát địa) của Vô Trước. Ở đấy ngài dạy rằng chúng ta nên đáp ứng đến người nào đó cần giúp đở. Thí dụ, nếu người nào đó đi đứng khó khăn, thế thì chỉ giúp đở người đó. Hãy giúp đở người khác khi họ rối rắm hay mờ mịt về một nhiệm vụ đặc thù nào đó mà họ đang cố gắng làm. Hãy biểu lộ bằng cách của quý vị để đến với những người  khác, hoan nghênh họ và v.v… Dừng lại với những ai đang gặp khó khăn và sợ hãi, cho họ tình thân hữu. Giúp đở và làm thoải mái những ai đang đau khổ trong nổi thương tiếc và buồn rầu. Đáp ứng để giúp đở những ai cần nhu cầu vật chất tức thời. Hãy là nơi nương tựa, nơi trú ẩn cho những ai đang cần sự hổ trợ cảm xúc. Hãy chăm nom điều ấy, trong việc cố gắng giúp đở người khác, bất cứ điều gì quý vị hoàn tất trong một phương thức làm hòa hiệp những thể trạng tâm thức của họ và vì thế có thể thật sự đem đến lợi ích. Nếu ai đấy dường như đang chúi đầu vào con đường sai lầm, hãy khuyên bảo người ấy để họ hướng bước về đường đạo đức. Khi cần thiết, hãy có một lập trường vững vàng - một cách đặc biệt khi nó liên hệ việc làm tổn hại sự thực hiện chí nguyện bởi một người khác. Và nếu, một ngày nào xa xôi trong tương lai, quý vị phát triển được những năng lực diệu kỳ qua thiền tập, thế thì hãy sử dụng những năng lực này để giúp đở người khác.

    Nhẫn nhục

    Với ba la mật thứ ba, nhẫn nhục, Tông Khách Ba (2:159) giải thích rằng có ba loại chính: nhẫn nhục là không quan tâm những tổn hại đối với quý vị, nhẫn nhục trong việc chịu đựng khó khăn và đau đớn, và nhẫn nhục là một loại biết chắc chắn về những khía cạnh đa dạng của giáo pháp. Đoạn này của Đại Luận (2:151-179) trích dẫn và xuất phát một cách chính yếu từ những giải thích tuyệt vời trong chương thứ 6 của Hướng Dẫn Lối Sống Bồ Tát của Tịch Thiên.

    Tinh Tấn (Nghị Lực Hoan Hỉ)

    Tông Khách Ba, Đại Luận (2:181-207), giải thích ba la mật thứ tư, nhẫn nhục ba la mật, được căn cứ một cách chính yếu từ chương thứ 7 của Hướng Dẫn Lối Sống Bồ Tát. Ngài (2:184) diễn tả ba hình thức của tinh tấn : tinh tấn giống áo giáp, tinh tấn tập hợp đức hạnh, và tinh tấn hành động vì lợi ích của người khác.

    Tinh tấn giống áo giáp đòi hỏi việc trau dồi một thái độ tính đến một khung thời gian cực kỳ lâu dài. Nó có nghĩa là việc phát triển cảm giác, ''Ngay cả vì lợi ích của một chúng sanh đơn lẻ, tôi sẽ tự hồi hướng chính mình trong hàng vô lượng kiếp, cho đến khi không gian còn tồn tại". Thí dụ, Đức Ban Thiền Lạt Ma trong Cúng Dường Đạo Sư nói rằng, "Tôi sẽ cố gắng vì lợi ích của người khác, ngay cả vì lợi ích của một chúng sanh đơn lẻ; ngay cả nếu tôi phải hiện hữu trong những cõi thấp trong hàng vô lượng kiếp, tôi sẽ không ngã lòng". Quyết tâm cương quyết lâu dài này thật sự được cho là phẩm tính của tinh tấn ba la mật, nghị lực hoan hỉ "giống áo giáp".

    Thiền Định

    Tông Khách Ba giải thích ba la mật thứ 5, thiền định ba la mật, và ba la mật thứ 6, tuệ trí ba la mật, trong những phần sau của Đại Luận dưới tựa đề "tĩnh lặng" và "tuệ giác nội quán", một cách tương ứng. Trong một ý nghĩa phổ thông nhất, tĩnh lặng (shamatha - chỉ) và tuệ giác nội quán (vipashyana - quán) là những thực tập thông thường đối với những truyền thống Phật giáo và không Phật giáo cổ điển ở Ấn Độ.

    Trong kinh Nhập Lăng Già, Đức Phật đã dạy một sự đa nguyên tâm linh diễn tả nhiều cổ xe (thừa) hay phương pháp cho việc tiến hành trên con đường tâm linh, kể cả những cổ xe của con người (nhân thừa), cổ xe cho chư thiên (thiên thừa), cổ xe cho hàng môn đệ (thanh văn thừa), và cổ xe cho hàng Bồ tát (Bồ tát thừa). Cho đến khi mà vẫn còn những khác biệt vô vàn về tính khí và thiên hướng tinh thần giữa các chúng sanh, thì cũng có nhu cầu cho vô vàn hình thức thực hành. Cổ xe cho loài người liên hệ đến bất cứ hệ thống nào mà mục đích chính của nó là tiến trình trên con đường hướng đến giải thoát khỏi những khổ đau tức thời và rõ rệt (khổ khổ). Nhưng cổ xe cho chư thiên chính yếu tập trung trong việc xua tan những khổ đau của thay đổi (hoại khổ); ở tại điểm này tĩnh lặng và tuệ giác nội quán là rất liên hệ. Ý tưởng chính là tiến bộ qua nhiều trình độ của tập trung (tứ thiền) và thiền định vô sắc (tứ vô sắc định). Mặc dù căn cứ trên việc trau dồi của tĩnh lặng thiền (chỉ), con đường thật sự liên hệ đến tuệ giác nội quán (quán) là so sánh những đặc trưng của những cảnh giới thấp (địa ngục, ngã quỷ, súc sanh) với đặc trưng tiến bộ vi tế hơn của những cảnh giới cao thượng.

    Làm sao chúng ta có thể chắc chắn về ba cõi - dục giới, sắc giới, và vô sắc giới? Chúng ta có thể có được một số thông hiểu bằng việc thẩm tra chính những thể trạng tinh thần của chúng ta. Những thể trạng tinh thần gắn liền với dục giới là hoàn toàn thô  phù, vì thế chúng là những hình sắc thô của phiền não và những tiến trình tinh thần khác. Trái lại, nếu quý vị đạt đến sự ổn định tinh thần, thế thì quý vị có thể an trú trong một thể trạng ổn định tương đối của tâm thức. Và trong những thể trạng thiền định, quý vị có thể thấy những thể trạng sâu hơn, vi tế  hơn tăng dần lên từng nấc. Do thế, quý vị có thể kết luận cũng có thể có những cảnh giới, những tình trạng của chúng sanh, là những thứ tương ứng  và là kết quả của nghiệp của những thể trạng tinh thần khác nhau này. Đây là một cách để có một cảm nhận về sự tồn tại của ba cảnh giới.

    Trong Kinh Nghiệm Tâm Linh Ca, Tông Khách Ba nói rằng sự tĩnh lặng cấu thành sự tinh thông và quyền chi phối đối với tâm thức của hành giả. Tĩnh lặng có phẩm chất như ông vua trong ý nghĩa là khi quý vị hướng tâm trực tiếp đến một đối tượng chọn lựa, nó có thể an trú tại đấy với sự vững vàng như một ngọn núi. Về mặt khác, quý vị cũng có thể sử dụng năng lực này để phân tích bất cứ đối tượng đức hạnh nào mà quý vị có thể lựa chọn. Trong trường hợp ấy, quý vị đang phát triển năng lực của tuệ giác nội quán trên căn bản của tĩnh lặng. Tĩnh lặng cung ứng sự ổn định tinh thần và tuệ giác nội quán cung cấp một năng lực phân tích. Hai thứ này có thể phối hợp với nhau.

    Hơn thế nữa, Tông Khách Ba nói rằng thiền định phát sinh an lạc khi thân thể và tâm thức quý vị trở thành nhu nhuyến. Điều này liên hệ đến việc đạt tới sự khinh an của thân thể và tinh thần, một sự bào mõng dần dần những trì trệ tự nhiên của chúng ta. Hành giả, người đang trau dồi tĩnh  lặng sử dụng tính khinh an này để đánh đổ bất cứ chướng ngại hay sao lãng nào và duy trì sự ổn định của thiền tập. Tôi biết một tu sĩ, người học  hỏi trong những tu viện bác học và thông bác nhiều kinh luận cổ điển của Phật Giáo, nhưng cũng đã hành thiền trong nhiều năm. Ông sống ở Bhutan trong một thời gian, trau dồi tĩnh lặng, và ông đã đạt đến một điểm, nơi mà kinh nghiệm của ông tràn ngập bởi một cảm giác an lạc. Tôi nghĩ rằng ông đã đạt đến sự an lạc này xuất phát từ sự khinh an nhu nhuyến của thân thể và tinh thần.

    Tuệ Trí Ba La Mật

    Trong Phật Giáo phổ quát, thuật ngữ "tuệ trí" liên quan đến những sự kiện về thực tại quy ước và những sự kiện về thực tại cứu kính. Trong phạm vi của sự tu tập, "tuệ trí" liên hệ đến một năng lực thông minh phải được phát triển. Hay nó có thể được liên hệ với việc học hỏi. Truyền thống cổ điển của Tây Tạng tự nhiên tuân theo kiễu mẫu truyền thống cổ điển của Phật Giáo Ấn Độ, nơi có 5 lãnh vực chính về tri thức và 5 lãnh vực phụ về tri thức. 5 lãnh vực chính về tri thức (ngũ minh) là học về ngôn ngữ - chủ yếu là Sanskrist (thanh minh), lý luận và nhận thức luận (nhân minh), y dược (y phương minh), nghệ thuật và thủ công (công xảo minh), và hệ thống tri thức Phật Giáo (nội minh). 5 lãnh vực tri thức phụ bao gồm nhiều chủ đề tương tự khác. Trong kiễu mẫu Phật Giáo Ấn Độ cổ điển đây là những thứ được xem là lãnh vực then chốt mà trong ấy một người có học thức phải trau dồi tuệ trí.

    Tuy nhiên, khi chúng ta nói về tuệ trí ba la mật, "tuệ trí" được liên hệ đến tri thức của thực tại cứu kính, bản chất tối hậu của mọi thứ. Trong Kinh Nghiệm Tâm Linh Ca, Tông Khách Ba nói rằng tuệ trí là con mắt mà với nó hành giả thấy thực tại thậm thâm. Tuệ trí là con đường mà nhờ nó hành giả trừ tiệt, phá hủy từ chính gốc rể, căn bản của vòng luân hồi. Gốc rể của vòng luân hồi là vọng tưởng, một các đặc biệt trong hình thức chấp trước vào sự tồn tại chân thật, và tuệ trí hiểu biết tánh không hoạt động như một phương pháp hóa giải trực tiếp đối kháng nhận thức về nền tảng này của vọng tưởng, do thế tiêu diệt nó. Tông Khách Ba nói rằng, vì lý do này, tuệ trí là trân bảo quý giá nhất của tất cả mọi đức hạnh kỳ diệu được diễn tả trong tất cả mọi kinh điển.

    Tất cả giáo huấn của Đức Phật, hoặc trực  tiếp hay gián tiếp, đều đồng quy về giáo huấn tánh không. Chúng có thể chỉ về tánh không, chúng có thể thật sự hướng đến tánh không, hay chúng có thể thật sự bố trí trên tánh không. Vì thế, Tông Khách Ba trong tác phẩm Ca Ngợi Đức Phật Vì Đã Dạy Lý Duyên Sanh, tuyên bố Đức Phật, "Mọi thứ mà Ngài đã dạy tiến lên từ lý duyên sanh vì lợi ích niết bàn, vì thế Ngài không có gì mà không hướng đến hòa bình". Tông Khách Ba sau đó tiếp tục nói rằng tuệ trí thông hiểu điều này giống như một ánh sáng kỳ diệu xua tan bóng tối của vọng tưởng[4].

    Hấp Dẫn Người Khác

    Tông Khách Ba giải thích về những sự thực tập của Bồ tát đạo, bên cạnh 6 ba la mật, cũng bao gồm (2:225-231) 4 cung cách chính để tập hợp tín đồ: (1) ban cho mọi người những thứ họ cần, (2) nói trong một cung cách tuyệt vời, (3) hướng dẫn người khác thực tập đức hạnh và hành động hướng đến giải thoát, và (4) sống cuộc sống của chính mình phù hợp với giáo pháp. Điểm cuối cùng là quan trọng: Bất cứ điều gì quý vị dạy người khác, thì quý vị phải tự biến thành một gương mẫu bằng chính sự thực hành của quý vị.

    Trích từ quyển "From Here To Enlightenment"
    Ẩn Tâm Lộ,Thursday, June 26, 2014

    Bài liên hệ

    Sự nối kết thâm sâu

    Giá trị to lớn của giáo huấn này

    Trái Tim Của Đạo Phật

    Đạo Phật Trả Lời Những Câu Hỏi Lớn

    Bốn chân lý cao quý

    Thực Tập Như Thế Nào

    Ý Nghĩa Của Đời Sống Loài Người

    Giải thoát và từ ái

    Tinh thần giác ngộ

    SOURCE TVHS

    Read more »
RSS