Niệm Phật Đường
Welcome
Login / Register

Tantric scriptures - Mật Giáo


  • VÀI NHẬN ĐỊNH VỀ BÀI PHÁP THOẠI “UY NGHI GIỚI HẠNH TRONG PHẬT PHÁP” CỦA PHÁP VƯƠNG GYAL WANG DRUKPA

    VÀI NHN ĐNH V BÀI PHÁP THO
    “UY NGHI GI
    I HNH TRONG PHT PHÁP” 
    C
    A PHÁP VƯƠ
    NG GYAL WANG DRUKPA
    Thích Nguyên Liễu

    Thanh Hai
    Thanh Hải

    Vào khoảng thập niên 80-90, có một người tự xưng là Thanh Hải Vô Thượng Sư, được sự chú ý của nhiều người. Tôi cũng bị kích thích tính hiếu kỳ, tìm xem những băng đĩa của bà Vô Thượng Sư ấy. Đây là một người phụ nữ có xiêm y sắc màu với vũ điệu trên màn hình, không khác các bà đồng bóng ở điện Hòn Chén - Huế. Tôi nghĩ thầm, “Vô Thượng Sư” chỉ là một cách xác định bản ngã của một nữ nhân quái kiệt mà thôi.

    Gyal Wang Drukpa
    Gyal Wang Drukpa

    Từ đó về sau, tôi không quan tâm đến vấn đề ấy nữa. Mấy năm gần đây, các vị Lạt Ma Tây Tạng, Nepal, Bhutan qua Việt Nam truyền bá mật tông, thường gọi là Kim Cang Thừa, có một vị tự xưng là Pháp Vương, tôi nghe là lạ khác thường, vì từ này ở Việt Nam xưa nay chỉ dùng trong bài kệ xưng tán Phật:

    Pháp Vương Vô Thưng tôn
    Tam gii vô luân tht
    Thiên nhân chi đo sư
    T sanh chi t ph

    Nay lại xuất hiện một pháp vương thứ hai. Tôi nghĩ đây chắc là một vị pháp sư có công hạnh đặc biệt lắm.

    Cũng bị kích động tâm thức, tôi quan tâm nghiên cứu về hành trạng của Ngài.

    Như thường lệ, muốn tìm hiểu một vị đạo sư, cần phải nghiên cứu qua hai phương diện, một là ngôn giáo, hai là thân giáo.

    Về ngôn giáo của Ngài Gyal Wang, trước tiên tôi đọc bài pháp thoại UY NGHI GII HNH TRONG PHT PHÁP, phần Việt văn trong cuốn “Conduct in Conformity With the Daharma”. Cần nói thêm rằng, đại đa số người Việt tiếp thu và ứng dụng giáo lý Phật Đà qua các bài giảng tiếng Việt của quí Cao Tăng, Đại Đức. Kinh điển thì nghiên cứu các bản dịch của quí Tôn Đức có sở trường dịch thuật. Tôi, người viết bài này, không ngoại lệ. Tôi diễn giải thêm như thế, bởi vì trong cuốn sách nói trên có nhiều thứ tiếng như Anh, Pháp, Trung văn, Tạng văn vv….Đây là phương thức khoe chữ…?

    Sau đây là một vài nhận định của tôi về bài pháp thoại trên.

    Mở đầu cho bài pháp thoại là bài xưng tán Tổ Sư dòng truyền thừa Drukpa:

    Kính l Kim Cương Thưng Sư Tôn!
    Đng Pháp Vương Drukpa tôn quý.
    Ngài là ch hết thy Đo Sư… 

    Đọc đến câu thứ ba này, tôi nghĩ, có lẽ ông Gyal Wang đã đi tham cứu tất cả các vị Đạo Sư cổ kim, mới có thể khằng định như thế?!

    “Ngài là Ch hết thy Đo Sư”

    Đây là một lời khằng định quy nạp, hàm hồ, thiếu ý thức. Qua câu này, chúng ta thấy rằng ông Gyal Wang cho Tông môn dòng truyền thừa Drukpa là cao hơn hết!!

    Điều này, tôi thấy ông Gyal Wang vướng mắc vào cái ngã chấp, chấp thủ khó dung thứ trong Phật Pháp: “Tôi và Tôn sư tôi là trên hết”. Diễn theo từ Duy Thức học, nó bao hàm ngã và ngã s - Tôi và cái ca tôi. Người tu theo đạo Phật, muốn giải thoát sinh tử khổ não, phải triệt tiêu tận gốc rễ cái ngã. Vì cái ngã là mt s chưng ln trong vic tìm cu gii thoát.

    Theo nguyên lý Phật Giáo, bất cứ Tiểu Thừa, Đại Thừa, Kim Cang Thừa hay Tối Thượng Thừa đi nữa, không có thừa nào dung chứa ngã chấp. Không phá ngã chấp, thì không bao giờ giải thoát sinh tử chứng Niết Bàn. Hòa Thượng Thiện Siêu đã dạy rằng: “Vô ngã là Niết Bàn”.

    Theo cuốn “Tinh túy trong sáng ca giáo lý Pht giáo” của Phạm Công Thiện, thì Mật tông Tây Tạng được Tổ Sư Thánh Tăng Ấn Độ là Ngài Atisha-Jowo Atisha- truyền sang từ thế kỷ XI năm 1042 và tiếp tục truyền thừa đến đời Đức  Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV (trang 57 sđd)

    Vẫn biết trước đó, thế kỉ thứ VIII, đã có Ngài Liên Hoa Sinh (Padmasambava) từ Ấn Độ qua truyền Mật Tông rồi, nhưng ở đây tôi chỉ dựa vào dòng truyền thừa của Đức Đạt Lai Lạt Ma mà luận.

    Dòng truyền thừa Drukpa đến thế kỉ XII mới thành lập, thì có thể là một chi mạc gì đó của dòng truyền thừa chính do Tổ Sư Atisha khai sáng.

    Cho dù Tổ sư dòng truyền thừa chính hay Tổ Sư truyền thừa của Ngài Liên Hoa Sinh đi nữa, cũng đã trên dưới hàng ngàn năm rồi, các Ngài đã viên tịch, đã nhập Vô Dư y Niết Bàn. Ông Gyal Wang dâng lên quý Ngài cái tham vọng làm “ch thì có ý nghĩa gì?! Nếu quý Ngài theo hạnh nguyện Bồ Tát, nhập Vô Trụ Xứ Niết Bàn, “Ứng hiện tùy cơ, trục loại tùy hình”, cũng không thể mang theo cái ngã chấp cố hữu như ông Gyal Wang vọng tưởng: “Ngài là Ch hết thy Đo Sư”. Một lời kệ quá tầm thường, không hề thấy trong văn học Phật giáo xưa nay.

    Phần trên, tôi chỉ mới bàn sơ về cái vọng tâm, vọng tưởng của ông Gyal Wang. Câu trích dưới đây lại thể hiện một phàm tình khác nữa: Ngài (T Sư dòng truyn tha Drukpa) t bi hơn tt c chư Pht và B Tát (dòng 16, trang 177 sđd)

    Theo truyền thuyết, huyền thoại và huyền ký, thì các Pháp Vương dòng truyền thừa Drukpa là hiện thân của Quán Thế Âm Bồ Tát. Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa, theo lời Ngài Vô Tận Ý bạch Phật thì Ngài Quán Thế Âm cũng là một Phật Tử:

    Pht T hà nhân duyên
    Danh vi Quán Thế Âm
    (Ngưi Pht T y nhân duyên gì mà đưc gi là Quán Thế Âm?)

    Cũng trong đoạn kệ trên, Đức Phật Thích Ca dạy, Ngài Quán Thế Âm ứng thân khắp nơi chốn, đời đời làm thị giả, thờ hằng sa Đức Phật:

    Thing chư phương s
    Lch kiếp bt tư nghì
    Th đa thiên c Pht

    Thế mà ông Gyal Wang nói Ngài Quán Thế Âm hóa thân làm bậc Thượng Sư trong dòng truyền thừa Drukpa, lạiT Bi hơn tât c chư Pht và B Tát. Có thể ông ta thuộc diện bất thường?. Đây là một lộng ngôn không thể chấp nhận. Điều này, nói câu này, người có chánh tri kiến hẳn thấy rằng đây là lời của tà giáo, cần phải cảnh giác, đừng bị mê hoặc…

    Từ Bi và Trí Tuệ là thể tánh viên dung trong Như Lai Tạng. Chư Phật, chư Bồ Tát, kể cả chúng sanh đều viên mãn. Nhưng vì chúng sinh bị màn vô minh bao phủ dày đặc không thể hiện rõ được. Chư Bồ Tát do hạnh nguyện lợi tha, có những diệu dụng sai thù. Chẳng hạn, diệu dụng của Ngài Quán Thế Âm là Từ Bi, diệu dụng của Ngài Văn Thù là Trí Tuệ. Người liễu nghĩa Thượng Thừa tuyệt đối không quan niệm rằng: Ngài Quán Thế Âm từ bi hơn Ngài Văn Thù và ngược lại, Ngài Văn Thù trí tuệ thắng Ngài Quán Thế Âm.

    Khái niệm hơn - kém, thuộc diện nhị nguyên, Từ Bi và Trí Tuệ là thể tánh viên dung bất nhị trong Chư Phật và Bồ Tát. Vì là viên dung bất nhị nên ông Gyal Wang xưng tán Tổ Sư dòng truyền thừa Drukpa t bi hơn tt c chư Pht và B Tát thì chúng ta phải hiểu rằng “Tổ Sư” trí tuệ cũng thắng chư Phật và Bồ Tát.

    Theo phàm tình mà luận, thì so sánh hơn kém, thắng thua là có ý tranh chấp, tranh giành ảnh hưởng. Tranh giành ảnh hưởng Từ Bi và Trí Tuệ với chư Phật và Bồ Tát thì thuộc diện Ma Vương rồi!

    Người Phật Tử phải có một tầm nhìn sáng suốt nhận chân đâu là chánh, đâu là tà cho việc tu tập của mình khỏi bị lệch hướng đáng tiếc.

    Để kết thúc tiểu tiết này, tôi xin phép tặng ông Gyal Wang hai câu trong bài kệ chúng tôi thường tụng khi lễ Phật:

    Nh kim vng dĩ uế đ kiến
    Lãi trc Như Lai thanh tnh tâm
    (Ngươi do vọng tâm nhìn cõi uế, đem so lường tâm thanh tịnh của Như Lai).

    Chúng ta đã thấy sự thiên kiến, chấp thủ sai lệch của ông Gyal Wang trong các phần trên, câu khiêm hạ sau đây của ông Gyal Wang ở phần cuối bài pháp thoại, chúng ta sẽ thấy rõ hơn nữa về một người được xưng tụng là “bậc Toàn Tri Tối tôn quí”:

    Mc dù s hiu biết tâm linh còn chưa t tưng rt ráo. Tuy nhiên, tôi là ngưi đã xa lìa tt c bt tnh ô nhim ca tám món bn tâm thế tc”. (dòng 1-3 trang 184, sđd)

    Theo tâm lý học, người nào tự nói tâm tôi đã thanh tịnh, giải thoát các triền phược nhiễm ô, thì người ấy tâm còn phiền trược, ô nhiễm nặng nề. Nói thanh tịnh, ly nhiễm chỉ là một thái độ ngụy tín che giấu cái phàm tình bên trong. Đó cũng là một cách xác định bản ngã của người tầm thường thôi.

    Những câu trần tình, bộc bạch như thế không hề nghe thấy trong ngôn ngữ Thiền sư. Chỉ nghe những câu đối vượt thoát phàm tình như thế này:

    Trúc nh to giai trn bt đng
    Nguyt luân xuyên hi thy vô ngân

    (câu đối chùa Trà Am – Huế)

    Tạm dịch: Bóng trúc quét thm bi không đng
    Vng trăng xuyên bin, nưc lng yên

    Lại nữa, Ngài là “bc thy giác ng”, là “bc toàn tri” của dòng Kim Cương Thừa, sao chẳng “tha” kim cương gì cả. Vẫn biết bản môn Kim Cương Thừa và diệu dụng phá chấp của kinh Kim Cương không đồng đẳng. Song ở đây,  tôi luận về “vô sở trụ”, cho nên cần trích dẫn kinh Kim Cương. Nếu Ngài là “bậc thầy giác ngộ”, thì Ngài phải liễu nghĩa kinh Kim Cương chứ, phải là bậc “Vô Sở Trụ” mới siêu việt. Còn Ngài trụ ở niệm xa lìa “tám món bn tâm thế tc” làm sao có thể sanh tâm, kiến tánh: ng vô s tr nhi sanh kỳ tâm”. Tâm sanh thì kiến tánh, kiến tánh thì ngộ nhập tánh không của vạn pháp, trực nhận “Bn Lai Vô Nht Vt”, chỗ nào cho bụi trần bám vào mà xa lìa với không xa lìa?! Trụ ở cái ý niệm xa lìa tám món bận tâm thế tục ấy, thì chẳng bao giờ thấy được bể pháp mênh mông đâu. Xả bỏ nó đi!

    Phật dạy:  ”phàm s hu tưng giai th như vng” và Phật cũng dạy rằng: ” pháp thưng ưng x hà hung phi pháp” (pháp còn phi x b hung h là phi pháp). Vướng vào ý niệm ấy là phi pháp rồi.

    Phật Tử Việt có thể xem đây là Bậc Thy giác ng, là hóa thân ca chư Pht, chư B Tát được không?

    Một vị Tăng được gọi là “Như Lai sứ giả” đi trao truyền chánh pháp, mà soạn một bài giảng lý chẳng khế, cơ chẳng hợp!!!

    Chúng ta sanh vào thời mạt pháp, gặp nhiều tà sư, tà thuyết. Buồn thay!!!

    T Bi thng sân hn
    Hin thin thng hung tàn
    B thí thng xan tham
    Chân tht thng hư ngy
    Pháp cú kệ – Tịnh Minh dịch

    blankPhần trên tôi đã trình bày về phần “ngôn giáo” của ông Gyal Wang. Chúng ta đã thấy rõ thật hư, chân giả của ông ấy. Để sáng rõ hơn nữa, tôi trình bày tiếp khía cạnh Thân Giáo và Hạnh Giáo. Về phương diện này, trước tiên tôi theo dõi những “oai nghi tế hạnh” của Ngài Gyal Wang qua các hình ảnh “biểu diễn” hấp dẫn, ngoạn mục trong cuốn “MANDALA”.

    Đầu tiên tôi quan sát hình ảnh Ngài trên trang bìa. Ngài đội mũ hình tháp cụt màu đen, trang trí những sợi dây màu vàng rất nổi. Miệng Ngài cười tươi như hoa nở, cổ khoác yếm xanh, dưới tay nhiều sợi dây như chuỗi hạt màu vàng chằng chịt. Nhìn toàn cảnh rất ngoạn mục, không khác gì một “ông đồng” ở điện Hòn Chén – Huế, khi lên diễn vũ điệu “Ông Chín Thượng Ngàn” (t đng bóng).

    Tôi quan sát rất kỹ tìm xem có nét nào của Thiền Sư hay Đạo Sĩ không? Không thấy, hoàn toàn không thấy!. Đây là đức tướng thứ nhất của Ngài Gyal Wang.

    Thứ đến, tôi lật vào các trang trong, thấy nhiều hình ảnh và màu sắc về Ngài Gyal Wang luôn thay đổi và rất sặc sỡ. Có hình Ngài đội bêrê đỏ, y vàng, y trơn như chiếc y của một chú Sa di ở Việt . Lật vào trong nữa, Ngài đội mũ bêrê xanh, quấn y trơn, y không điều – Điều là từng miếng vải kết lại thành từng ô, tượng trưng chiếc y như mảnh ruộng phước, gọi là Phước Điền Y. Điều cũng biểu thị tính chất đức độ của Tăng, Ni.

    Tôi lật tiếp thêm, thấy Ngài đội mũ đỏ thẳm, quàng y với nhiều hoa văn sặc sỡ vàng, đỏ, tím...

    Nếu có một cái nhìn tổng quát về trang phục, áo mão của ông ta thì thấy, khi thì vàng, khi thì đỏ, khi thì tím, khi thì nhiều hoa văn. Tôi có cảm giác như Ngài là một diễn viên trên sân khấu, thường xuyên hóa trang cho hợp vai diễn của mình. Đặc biệt, tôi nhìn kỹ tấm hình trang 142, ông ta diễn xuất rất điệu nghệ như hình của một diễn viên điện ảnh lành nghề. Nếu là một nghệ sĩ, một ngôi sao màn bạc thì đây là hình ảnh đẹp, tuyệt diệu. Nhưng ngược lại, một Tăng sĩ, một Đạo Sư thì hình ảnh này thiếu oai nghi, khó kính ngưỡng. Nếu không muốn nói là quái Tăng. Một Đạo Sư, hình ảnh phải chính diện, uy nghi, hợp với pháp phục, nghĩa là phải hủy bỏ cái hình ảnh sắc nét, không hợp với pháp phục (hy kỳ hình ho, ng pháp phc c)

    Một điều cần chú ý nữa là ông Gyal Wang để tóc dài phủ tới khỏi vành tai rất khó coi (h.t 126, 234, 250 sách Mandala). Có phải vì vậy mà Ngài phải luôn đội mũ?

    Giả sử có người tiện tay lột cái mũ của ông ta ra, thì không thấy hình tướng oai nghi của một người đệ tử Phật nữa rồi!

    Chúng ta đã biết rằng, người đệ tử Phật thường mặc áo hoại sắc, đơn giản, mỗi tháng trước hai kỳ Bố Tát phải thế phát tươm tất. Hình ảnh người tu sĩ Phật Giáo nhẹ nhàng, thanh thoát như thế từ trên 2500 năm trước đến nay vẫn không thay đổi.

    Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV – biểu tượng cao nhất của Mật Tông –Tây Tạng – được cả thế giới kính ngưỡng vẫn có trang phục truyền thống của tăng sĩ Phật giáo.

    Vậy ông Gyal Wang có phải là một đệ tử Phật không? Mỗi người chúng ta hãy tự suy nghĩ.

    Trên đây là Thật Tướng (nghĩa đen) của ông Gyal Wang, còn Thật Hạnh thì như thế nào, đợi người đi Nepal về sẽ rõ.

    Một người đồng pháp giới với tôi ở miền Bắc, rất kính ngưỡng Ngài Pháp Vương Gyal Wang Drukpa. Nhưng sau khi đi dự Đại Hội Thường Niên dòng truyền thừa Drukpa về gặp tôi, thầy nói:

    -  Trăm nghe không bng mt thy, tôi đã b cái mng cu pháp Kim Cương Tha  ri!”

    Tôi hỏi vì sao?

    Thầy kể một cách thất vọng:

    -  Ông ta  trong mt n tu vin, có phòng c sang trng, kín như bưng, vi my tng ca đóng then cài cn mt. Nhìn vào tôi t nghĩ đây là tu vin hay pháo đài? Ông ta còn là mt tài xế thin ngh, lái xe con ch n nhân Vit Nam chy vù vù qua đưng đèo dc, tôi thy chng đp mt chút nào c”.

    “Mt v Lt Ma đã nói vi tôi, ông ta là mt cư sĩ, đ tóc như thế cho tin vic sinh hot đi thưng”.

    Tôi nghĩ đây cũng là một Thanh Hải Vô Thượng Sư nữa rồi!

    Trầm ngâm một lúc, thầy tiếp:

    -  Trong lúc đó, đi sng ca ngưi dân Nepal quanh tu vin nghèo nàn, xơ xác, nếu không nói là lc hu. Nhìn hai cnh đi, trong tu vin và ngoài dân gian, tôi nh hai câu thơ ca Đ Ph đi Đưng:

    “Châu Môn  tu nhc xú

    L hu đng t ct”

    Nhấp một ngụm trà, thầy nói tiếp:

    -  Nếu là mt ông thy tu Pht Giáo  thì phi có gii lut. Tăng Ni ph riêng như chúng ta. Ngài Đi Thiên (Mahadeva) nói mt trong năm điu bt toàn ca La Hán rng: “ti bc A-la-hán thì đon dit hết mi phin não, nhưng vì còn có nhc thân, nên có vn đ sinh lý không phi là hết hn, trong khi thy miên (ng ngh), b ác ma d hoc vn có lu tht.”

    Quan điểm của Ngài Đại Thiên tôi không đồng tình, tuy thế thấy ông Gyal Wang – một người vẫn có nhiều nét phàm tình, lại ở trong một nữ tu viện thì ai cũng có thể đặt một nghi vấn: Hẳn ông Gyal Wang thuộc dòng truyền thừa của “phái Mũ Đỏ” mới có thể chung cư trong một nữ tu viện. Phái này có lối tác pháp quái dị, Phật Giáo nghiêm cấm.

    Đặc biệt trong tu viện này không có hình tượng của Đức Phật mà chỉ có hình của ông Gyal Wang và các hình ảnh kỳ dị khác mà thôi?

    Thầy chợt thở dài:

    -  “Thì ra cuc đi là thế, nếu đng xa mà nhìn thì rt m ho, nhưng khi đến cn cnh thì v mng!”

    Đến đây, tôi ngắt lời thầy:

    “Thy ơi, mng v hay lành cũng ch là mng”
    Đi mng thùy tiên giác
    Bình sinh ngã t tri

    Dùng Bát Nhã đ quán chiếu là yên hết. Mi thy dùng trà, trà Olong Tâm Châu chính hiu đy”.

    Tôi mỉm cười, đọc hai câu kệ:

    “Trưc hu sa trn hu
    Vi không nht thiết không”
    “Có thi có t my may
    Không thi c thế gian này cũng không
    Kìa xem bóng nguyt dòng sông
    Ai hay không có, có không là gì?”

     

    Thưa quí v đc gi Pht T.

    Khi viết về hành trạng của Pháp Vương Gyal Wang Drukpa qua phần Ngôn giáo, Thân giáo và Hạnh giáo, tôi cần phải quảng lãm cuốn MANDALA – s hp nht ca t bi và trí tu. Tôi thấy nội dung cuốn sách này cũng có một số vấn đề cần phải đàm luận. Mỗi tông phái Phật giáo đều có một nghi thức riêng, Mật Tông gọi là Nghi quỹ, Thiền Tông có Thanh Quy Bách Trượng, vấn đề  này tôi hoàn toàn không đề cập đến, chỉ bàn sơ một vài nét nội dung, một vài nét thôi. Nếu đàm luận đủ chắc phải mất nhiều thời gian, có thể thành một cuốn sách nhỏ.

    Nhìn chung, nội dung cuốn sách, có nhiều truyền thuyết, huyền thoại và huyền ký mang tính “Phong Thần”, khó nghĩ khó bàn.

    Riêng về pháp quán đỉnh, trước đây tôi cứ nghĩ nó thuộc về diện Mật pháp khác với các pháp môn của Thiền tông, Tịnh Độ tông, và Mật Tông Việt . Song, khi đọc bài truyền pháp “quán đỉnh cộng đồng Phật Dược Sư, Đại Thành Tựu Phật A Di Đà” (t 21. Mandala), tôi thấy chẳng có gì khác mấy với các pháp môn tu tập mà Tổ Tổ tương truyền, các Thầy đã giảng ở Việt từ xưa tới nay. Pháp quán đỉnh của ông Gyal Wang giảng tương tự như phương pháp quán tượng niệm Phật, ngồi niệm Phật quán tưởng Đức Phật A Di Đà, ngự trên hoa sen ở trên đỉnh đầu mình. Quán cho đến khi nào ngồi vào niệm Phật là thấy rõ ràng ngay. Thế là đã thành tựu một pháp. Thứ nữa, khi ngồi niệm Phật quán toàn cảnh thế giới Cực Lạc hiện tiền. Theo Pháp quán này, khi ngồi vào niệm Phật, quán thấy toàn cõi Cực Lạc rực rỡ với Đức Phật  A Di Đà đang thuyết pháp. Quán cho đến khi nào ngồi vào niệm Phật là thấy ngay cảnh giới Cực Lạc hiện tiền.

    Các pháp quán này nếu thực hành thành tựu viên mãn, khi lâm chung sẽ có mùi hương lạ lan tỏa khắp chung quanh. Điều này ở Việt đã có kiểm chứng.

    Đây tôi mới bàn luận về pháp quán để thấy rằng pháp quán đỉnh của ông Gyal Wang không xa lạ gì với Phật Tử Việt . Tôi chưa đề cập đến phương pháp trì danh niệm Phật khi đến nhất tâm bất loạn, thì khi cất tiếng niệm Phật là nghe cả bầu trời vang vọng tiếng niệm Phật, thường được gọi là Niệm Phật Tam Muội. Điều nữa, pháp quán tưởng tự tánh Quán Thế Âm, tự tánh A Di Đà, tự tánh Dược Sư, Thầy Tổ đã dạy, đã giảng từ lâu rồi. Chẳng hạn như quán tưởng tự mình là Quán Thế Âm, thì năng lượng từ bi sẽ lan tỏa, thương tha nhân như thương con một của mình, người xung quanh cảm nhận được sự bình an. Nếu quán tưởng tự tánh của ta là Phật A Di Đà, thì tự tâm muốn tiếp độ chúng sanh bình đẳng không sai biệt, và cảm thấy cảnh giới hiện tiền thanh tịnh, an lạc…vv…

    Ông Gyal Wang cứ tưởng nghi quỹ quán đỉnh của mình là đặc thù của dòng truyền thừa Drukpa thôi. Không có chi là đặc thù cả, phổ cập lắm, chỉ sai biệt ngôn ngữ thôi.

    Có một điều đặc biệt cần ghi nhận là ông ta nói về biểu tượng màu sắc. Chẳng hạn, Phật A Di Đà có sắc thân màu đỏ, Phật Thích Ca có sắc thân màu vàng, Phật Dược Sư có sắc thân màu xanh …vv…Mỗi màu sắc tượng trưng cho một năng lượng và diệu dụng khác nhau. Cũng nên nhớ rằng, tượng trưng không phải là hiện thực, ông Gyal Wang biến nó thành hiện thực trên mũ, trên áo là khôi hài.

    Cũng trong bài giảng pháp này ( trang 28 dòng 8 sách Mandala) ông Gyal Wang thuyết giảng vô căn cứ rằngTrong Kinh tha không đ cp đến phương pháp quán tưng này”.

    Tôi xin cung thỉnh Pháp Vương Gyal Wang Drukpa và Tăng đoàn tùy tùng sang Việt làm thính chúng. Tôi mạn phép làm thuyết trình viên nói về các pháp quán trong Kinh tha, để quí vị bổ sung vào cái sở tri, sở kiến lầm tưởng cố hữu. Trong lúc chờ đợi, xin quí vị tạm thời nghe qua một số pháp quán trong Kinh Thừa như sau:

    -  Kinh Hoa Nghiêm có ba pháp quán:

    1. Chân Không quán
    2. Lý sự vô ngại quán
    3. Châu biến hàm dung quán

    -   Pháp Hoa tông có ba pháp quán:

    1. Không quán
    2. Giả quán
    3. Trung quán

    -   Thành thật tông có hai pháp quán:

    1. Ngã không quán
    2. Pháp không quán

    Ngoài ra còn nhiều pháp quán như: “Lục diệu pháp môn quán, Bát thắng xứ quán, Bát bối xả quán (các pháp quán này thuc din Lun Tông). Những pháp quán sau đây thường được học và được nhiều người thực hành:

    1. Tứ vô lượng tâm quán
    2. Ngũ đình tâm quán; pháp quán này có năm đề mục:
    • Bất tịnh quán
    • Từ bi quán
    • Nhân duyên quán
    • Giới sai biệt quán
    • Sổ tức quán

    3.  Biệt Tướng niệm xứ quán cũng có bốn pháp quán:

    • Bất tịnh quán
    • Thọ thị khổ quán
    • Tâm vô thường quán
    • Pháp vô ngã quán

    Những pháp quán này chỉ mới sơ lược về đề mục, nếu có dịp thuyết trình sẽ được triển khai ý nghĩa và thực hành cụ thể, và sẽ trình bày thêm nhiều pháp quán khác nữa.

    Đến đây, quý vị đã thấy lời thuyết giảng của ông Gyal Wang như người mù đọc sách chữ nổi, rồi thuyết trình với học giả hoặc ông ta như người mù cầm gậy dò đường về đất Phật?! Đáng tiếc thay!

    Ông Gyal Wang cần biết rằng, Phật Giáo Việt , sau một thời gian dài suy đồi; từ Lê – Nguyễn đến thời Pháp thuộc. Hai phần ba thế kỷ nay, việc chấn hưng Phật Giáo của quý Tăng sĩ và Cư sĩ đã đem lại những thành tựu thiết thực. Các trường từ Sơ cấp đến Học viện Đại học Phật Giáo có đủ. Pali tạng và Hán tạng cũng cụ túc. Các Tăng, Ni, Phật Tử có trình độ Đại học Phật Giáo không ít, có vị trí tuệ siêu việt như Thượng Tọa Tuệ Sỹ. Rất nhiều vị có học vị tiến sĩ như Thiền sư Trí Siêu, Thượng Tọa Nhật Từ, vv…

    Có lẽ, quý Ngài ấy không quan tâm đến những cuốn sách bình thường như Mandala này. Chỉ có người sơ căn, trí thiển như tôi mới tiếp cận, luận bàn và chấp bút mà thôi.

    Ông đến Việt mà phát biểu theo thiên kiến mơ hồ, không có cơ sở kiểm chứng rằng:

    “Ngài là ch hết thy đo sư”.
    “Ngài T Bi hơn tt c chư Pht và B Tát”
    - “Tôi là ngưi đã xa lìa tt c bt tnh ô nhim ca tám món bn tâm thế tc”
    “Kinh tha không đ cp đến phương pháp quán tưng này”.

    Những lời thuyết giảng như vậy, được ghi lại thành sách, người ta sẽ cho rằng ông Gyal Wang là, nói theo lời dân gian, hơi thô một chút: “Điếc không sợ súng”.

    “Ngưi ngu biết mình ngu
    Nh vy mà thành trí
    Ngưi ngu tưng có trí
    Tht xng gi chí ngu”
    Pháp cú k
    H.T Minh Châu dịch

     

    Quý thy, quý cô thân,

    Nhìn hình ảnh trong cuốn Mandala của ông Gyal Wang thuyết giảng và tùy thuận in ra, tôi thấy quý vị đến dự pháp hội Quán đỉnh và nghe ông ta thuyết giảng khá đông đảo. Tôi có một vài suy nghĩ gởi đến quý vị.

    Phật giáo Việt đã hơn 2000 năm lịch sử truyền thừa. Các tông phái như Thiền Tông, Tịnh Độ tông cũng như Mật Tông đã hiện diện khắp nơi trên đất nước. Các pháp môn tu tập như Thiền quán, Sổ tức quán, và quán tưởng cảnh giới Cực Lạc niệm Phật hay trì danh niệm Phật đều được các cao Tăng truyền dạy khá đầy đủ, cũng có các vị dạy phương thức trì chú rất nghiêm mật trong sách vở cũng như hướng dẫn trực tiếp. Quý vị đã gia công thực hành chu đáo hay chưa?

    Tôi thấy trong hình có tính chất phô trương, thấy quý thầy, quý cô hương hoa tiếp rước, nghe giảng và thọ pháp quán đỉnh với ông Gyal Wang khá đông (h.t 190 - 215)

    Xin thưa rằng, ông ta là một người Tăng chẳng ra Tăng, tục chẳng ra tục, hình tượng giống như một giáo sĩ Bà La Môn. Đệ tử của Phật không có vị Tăng nào tóc dài và pháp phục sặc sỡ, nhiều màu sắc như thế. Quý vị pháp phục trang nghiêm (h.t 190), cúi đầu thọ pháp như vậy, có cảm thấy tổn thương Tông Môn và Thầy Tổ chăng?!!!

    Vẫn biết Phật Tính không có Nam Bắc, Đông Tây nhưng khi truyền pháp phải có lý sự viên dung, mới có thể thành tựu đàn tràng. Nếu quý vị là Tỳ Kheo, khi thọ giới thì Giới Thể và Giới Tướng đã cụ túc, gọi là Cụ Túc Giới, không thể thọ thêm giới pháp nào khác nữa.

    Giả dụ ông ta là một Bồ Tát hóa thân, thì phải “Trc loi tùy hình, ng hin sc thân”. Nghĩa là ông ta phải thế phát, mặc pháp phục một vị Tăng, đệ tử Phật.

    Theo tôi, quý vị nên trở về Bản Môn, “hồi quang phản chiếu”, kiểm thúc thân tâm, phụng hành theo lời Thầy Tổ dạy:“Ni cn khc nim chi tâm, ngoi hng bt tranh chi đc”, viễn ly các ác pháp như tham, sân, si… Chọn một pháp môn thích hợp với căn cơ mình, hành trì bất thối chuyển. Có công phu bất thối, thì sẽ có kết quả như sở nguyện, sở cầu, không cần phải tìm kiếm bên ngoài đâu xa. Thọ pháp với ông Gyal Wang một trăm lần đi nữa, cũng như nước xuôi qua cầu, chẳng có tác dụng gì đâu!

    Phương ngôn có câu: “Phật ở nhà không thiêng”, quý vị hãy chiêm nghiệm ý nghĩa trong câu này.

    Vì danh dự Tông Môn, Thầy Tổ, quý vị hãy coi đây là lời của một pháp lữ, không có ý thức dạy đạo, dạy đời.

    Xin quý thầy, quý cô hãy thức tỉnh và cảm thông.

    Nếu gp ngưi hin trí

    Ch trách điu li lm

    Hãy tha thiết cu thân

    Như ngưi ch kho báu

    Kinh Pháp cú

    Tịnh Minh dịch

    Đến đây, xin được tiếp chuyện với hai vị học giả Nguyễn Tường Long và Vô Úy.

    Hôm nay hân hạnh được gặp quý vị trên văn đàn “Mandala”

    Rất tuyệt vời, quý vị là những nhà biên tập và dịch thuật “xuất sắc”, văn chương có cú pháp chặt chẽ, bóng bẩy, gợi cảm như nước chảy, mây trôi. Sau đây, tôi xin trích một vài câu, một số đoạn trong cuốn Mandala, ít câu trong bài pháp thoại để chứng minh và cùng thưởng thức:

    -  “Bc Toàn Tri Ti Tôn Quý – Đc Pháp Vương Gyal Wang Drukpa đi th XII”

    -  “Còn hnh phúc nào hơn! Trong bin kh trm luân vô đnh, tht may mn cho nhng ai đưc quy y tu hc dưi s hưng đo ca bc Thy Tôn Quý, Đc Pháp Vương Gyal Wang đi th XII, Bc Khai Sáng, lãnh đo truyn tha Drukpa quang vinh, hóa thân chân tht ca B Tát Quán Thế Âm.”

    -  “Tht may mn cho đt nưc Vit Nam nói chung, Pht T Vit Nam nói riêng, đã có phúc duyên ba ln đưc Ngài thăm viếng, trao truyn quán đnh, khu truyn và trc tiếp hưng đo, dưi ân đc gia trì ca Đc Pháp Vương Gyal Wang Drukpa.”

    -   “Ngài là bc thy giác ng, là hóa thân ca chư Pht, chư B Tát…xin quý Pht T hãy ung cn dòng sa pháp ngt ngào, t trái tim thm đm yêu thương ca v B Tát đ khôn ln, đ trưng thành…”

    (Nhng đon trích trên đây trong “li m đu” sách Mandala ca Vô Úy)

    Xin tiếp tục:

    -  “…quán tưng bc Thy đang truyn quán đnh cho chúng ta chính là Pht Dưc Sư.” (t 27) (Đây là phương thức tự thần thánh hóa của ông Gyal Wang Drukpa)

    Thêm nữa, ở trang 28, ông ta lại giảng một cách thiếu căn cứ:

    -  “… trong Kinh tha không có đ cp đến phương pháp quán tưng này…”

    Để có một cái nhìn tổng thể, tôi xin trích thêm một số câu trong bài pháp thoại:

    -  “Ngài là ch hết thy Đo Sư.”
    -  “Ngài t bi hơn tt c chư Pht và B Tát”
    -  “…Tôi là ngưi đã xa lìa tt c bt tnh nhim ô ca tám món bn tâm thế tc.” vv…

    Có người khi đọc cuốn Mandala và bài pháp thoại trên, gạch đỏ dưới những dòng đã trích trên, đến với tôi nói rằng: “Chắc Nguyễn Tường Long, Vô Úy và ông Gyal Wang đã bị bệnh hoang tưởng hay loạn tưởng nặng rồi. Cần chữa trị mới được.” (Bài này có th là mt liu pháp).

    Tôi thì không nghĩ như thế, song tưởng cũng nên ghi lên đây lời của ông Jean Claude Carrière (*) tán thán Đức Đạt Lai Lạt Ma  thứ XIV, trong cuốn “sc mnh ca đo Pht” cho quý vị học tập để khi có dịp, viết hiện thực hơn, chứ không viết theo kiểu phóng đại, tô màu mang hình thức quảng cáo, người trí coi thường.

    “Tôi sinh năm 1931, hơn Ngài (Đc Đt Lai Lt Ma) 4 tui... Ngài là mt đa tr đưc ch đnh mt cách huyn bí vào chc trách mà hin nay Ngài đang nm giy vy mà đôi khi, tôi có cm giác rng, ngưi đàn ông đang đàm thoi vi tôi, khi thì tươi cưi, lúc li đăm chiêu và thưng thân mt nm tay tôi, phi hơn tôi đến hai hoc ba ngàn năm tui. Ngài mang trong mình c mt châu lc tư tưng, hình nh, âm thanh, tình cm ca ngàn xưa, đưc duy trì qua thin quán hàng ngày và vì thế mà luôn sng đng” (t94 sđd)

    Đọc đoạn văn trên, ông Jean Claude Carrière không đề cập đến huyền thoại, huyền ký hay thần thánh gì cả. Nhưng tôi, cũng như người Tây Tạng, luôn thấy Ngài là một vị Phật sống.

    Riêng quý vị thì lại thổi phồng, cường điệu nhân vật Gyal Wang với nhiều nét thần thánh. Người có chánh tri kiến thì khó có thể tin tưởng và người sơ cơ lại mù quáng, mê muội tin theo…

    Quý vị nên đọc cuốn “T truyn Đc Đt Lai Lt Ma XIV”, để thấy hội đồng Lạt Ma Trưởng Lão đi tìm Đức Đạt Lai Lạt Ma hóa thân một cách thiết thực và có kiểm chứng được. Và cũng nên đọc cuốn “Các Lt Ma hóa thân”của Ngài Lobsang Ramba. Đây cũng là tự truyện của Ngài Lobsang Ramba. Ngài là con thủ tướng Tây Tạng thời Đức Đạt Lai Lạt Ma XIII. Ngài xuất gia lúc 7 tuổi. Lobsang Ramba được Đức Đạt Lai Lạt Ma XIII chỉ định luyện thần nhãn và học y khoa để sau này làm thị giả cho Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV lưu vong (các Ngài Trưng Lão Tăng đã tiên tri như thế).

    Hai cuốn sách này cũng có nhiều điểm huyền bí, nhưng rất hiện thực và tin tưởng được.

    Tất nhiên, tôi rất kính ngưỡng Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV và các đệ tử của Ngài, riêng các vị Lạt Ma ở Tây Tạng hiện nay ngoài tri kiến của tôi…

    Về sự truyền thừa của Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV, c s Pht Giáo n Đ của Ngài Thích Thanh Kiểm ghi nhận như sau:

    “Các phái kế tha ca Ngài Atisha, sau dn dn loi b giáo lý Hin Giáo, ch chú trng  giáo lý Mt giáo, đi vào li tác pháp cc đoan ca Kim Cương tha, nên Mt Giáo dn dn b try lc, tc Mt Giáo đi vào con đưng d đoan ca Tà đo… May có Ngài Tôn Khách Ba (Tson Kha Pa) ci cách Mt Giáo. Ngài nghiêm trì gii lut, đưa h thng Mt Giáo thành mt t chc mi. H thng phái ci cách này, gi là Hoàng Mo phái (phái Mũ Vàng). Còn phái cũ gi là Hng Mo phái (phái Mũ Đ. Đúng ri, ông Gyal Wang thuc phái Mũ Đ này)

    Trưc khi viên tch, Ngài Tôn Khách Ba đem giáo pháp di chúc cho hai đ t Thưng th là: Da Lai Blama (Đt Lai Lt Ma) và Pan Chen Blama (Ban Thin Lt Ma).” (trang 243 – sách lược sử Phật Giáo Ấn Độ)

    Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV thuộc dòng truyền thừa này.

    Qua những phần đã bàn luận trên, tôi có vài dòng tổng kết ngắn gọn như sau:

    Dựa trên 32 hiện tướng của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát trong phẩm Phổ Môn chúng ta thường tụng, nhiều người lạm xưng là Quán Thế Âm hiện thân, Quán Thế Âm hóa thân. Nhưng trên thực tế, Thật tướng đức Quán Thế Âm không thấy, Tự tánh đức Quán Thế Âm không thấy thể hiện, chỉ thấy những người vì danh, vì lợi, lạm dụng phô trương, quảng cáo mà thôi.

    Chúng ta hãy nghe Ngài Tuyên Hóa giảng về tự tánh Quán Thế Âm:

    -  “Có mt s ngưi nói h hành đo B Tát, nhưng đúng ra là h ct biu din cho bà con thy. Mi c ch, mi li nói ra, h đu phô trương cho mi ngưi thy ch không phi chính h (nghĩa là không thc hành t tánh Quán Thế Âm gì c).

    -  “Ngưi tu hành hãy hiu rõ “sai mt ly, đi mt dm”, phi t nhc mình dng công đi đúng hưng, tránh r ngang, khi đi vào đưng bàng môn ngoi đo và lâm vào tình trng tà tri – tà kiến. Phi luôn gi Chánh Tri Kiến thì chánh nim mi hin tin”.

    Về Mật Giáo và Kim Cang Thừa, tôi không hiểu biết nhiều, xin ghi nhận thêm vài đoạn trong cuốn “Lưc s Pht Giáo n Đ của Ngài Thích Thanh Kiểm, trang 233, phần cuối trang để chúng ta cùng tham cứu:

    “H thng “Chân Ngôn tha” và “Kim Cương tha” (Vajrayana) ca Mt Giáo sau khi xut hin, thì tư tưng Mt Giáo phát trin mnh m trên lãnh th n Đ.  Trong hai h thng này, “Chân Ngôn tha” thì chú trng phn lý lun, nên kém phát tri phương din thc tế, trái li “Kim Cương tha”, chú trng phn thc tế, nên kém phát tri phương din lý lun. T khong thế k X tr v sau, vì “Kim Cương tha” kết hp vi phái “Sàkta” cn Đ Giáo (*), nên phái này bày đt ra nhiu li hành pháp theo tà giáo, dn dn đi vào vòng đa lc, ly ch nghĩa khoái lc, dc vng cho là diu lý chí nhân, làm mt hn cái bn lai chân tưng ca Pht Giáo”.

    “…S tưng ca Mt Giáo như các cách tng thn chú, quán Du Già vv… Không phi là li tác pháp đc bit ca Mt Giáo mà cũng là chnh hưng tp tc c truyn ca dân tn Đ và Bà La Môn giáo. Thí d như pháp Thin đnh ca Pht Giáo thì chú trng  ch đt ti trí tu, nhưng phép quán Du Già ca Mt Giáo li chú trng  mc tiêu cu phúc, tr tai ho cho thế gian”.

    Sau hết là s quan h mt thiết gia phái Sàkta (tính lc phái) cn Đ Giáo, và phái “Kim Cương tha” (Vajrayana) ca Mt Giáo. Nguyên lai phái Sàkta thì sùng bái n thn Durga, nghi thc ca phái này rt bí mt, có nhiu trò ma thut, nhiu hình thc dâm đãng. Sau li hành pháp ca phái này lm nhp vào li hành pháp ca “Kim Cương tha” nên phái Kim Cương tha dn dn b đa lc vào vòng tà đo, và cũng là nguyên nhân đa lc ca Mt Giáo.

    S giao thip gia Mt Giáo và n Đ giáo c mi ngày mi rõ rt, mt mt thì Mt Giáo tiếp nhn các yếu t hành pháp cn Đ Giáo, mt mt thì n Đ Giáo tiếp nhn các li hành pháp ca Mt Giáo, nên hai giáo phái tr thành mt trng thái hn hp khó th phân bit rõ ràng. (t231 – 232)

    Để đúc kết bài nhận định này, tôi ghi lên đây lời phê ngắn gọn, súc tích của Hòa Thượng Trí Quang, khi Ngài dịch và giới thiệu tập “Đại Thừa Khởi Tín Luận” của Ngài Mã Minh để chúng ta hãy cùng suy ngẫm: “Khi Mt Tông thnh hành thì Đi Tha tr thành tào tp.”

    Tôi là người có căn sơ, trí thiển, “Li quê góp nht dông dài”, luận bàn có chỗ nào “bt tương ưng”, xin quý vị cao minh hỷ xả.

    “Đạo khả đạo phi thường đạo”
    “Danh khả danh phi thường danh”

    Lão Tử

    “Mai sau tín ch nào nghe
    Tìm lên xin hi mt bè mây xanh

    Huế, mùa An Cư Tân Mão, 2011

    THÍCH NGUYÊN LIỄU

    Kính bút.

    Chú thích:

    (*) Jean Claude Carrière, ngưi viết cun sách “Sc mnh ca Đo Pht”, là nhà văn đng thi là nhà son kch, nhà viết kch bn phim. .. Ông đã viết kch bn cho hơn 60 b phim và là nhà văn có khi lưng tác phm đs. Năm 1983, ông đt gii thưng  César dành cho phim có kch bn hay nht. Vi nhng đóng góp ngh thut, ông đã đưc nhà nưc Pháp tng huân chương Bc Đu Bi Tinh.

    (*) Bà La Môn Giáo, n Đ Giáo và Hindu là mt, do biến thiên ca tng thi đi mà có tên gi khác nhau.

    (*) Tha phương th gii

    Trc loi tùy hình
    ng hin sc thân
    Din dương diu pháp
    Ngài Quy Sơn

    Phương này, phương kia, tùy hình th chúng sanh mà B Tát ng hin sc thân cho phù hp đ din dương diu pháp.

    SOURCE: TVNHS

    Read more »
  • BA ĐỘC TÂM Lama Zopa Rinpoche

    Tâm người bị ba thứ độc tố trói buộc, chính vì vậy chúng ta không  sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc, chẳng hạn như sân hận, một độc tố cực kỳ hiểm hại, tựa như ngọn lửa thiêu rụi hết thảy mọi phúc lạc. Ngọn lửa có thể tàn phá những vật dụng đẹp đẽ nhất, tài sản, nhà cửa; lửa giận có thể thiêu hủy chúng ta và gây xiết bao hiểm họa trong đời sống này.

    Sân hận vì vậy là một nhân tố cực kỳ bạo lực đối với tâm, tối nguy hiểm đối với an lạc hạnh phúc của chính ta và những hữu tình khác.

    Khi khởi sân, người ta nổi đóa với những người trong gia đình, chửi rủa, đánh đập họ thậm chí sát hại họ và có thể sát hại luôn những người xung quanh nữa. Khi tâm hung hãn bùng phát, người ta có thể giết chóc hàng trăm người, hàng ngàn thậm chí hàng triệu người – tâm sân hận đẩy con người vào sự nguy khốn của chết, của giết chóc hoặc bị giết chóc. Có nhiều thứ người ta thường làm khi nổi điên, chẳng hạn như đập phá đồ đạc. Chẳng lợi ích gì khi đập phá đồ đạc cả – ví dụ như bàn ghế, chén đĩa. Song một khi cơn điên giận nổi lên, đương sự đập phá cả những thứ này dù rằng đập phá thật vô bổ và vô dụng. Như vậy, chúng ta gây ra rất nhiều phiền não vô ích. Sân giận phá hủy tất cả những điều đẹp đẽ, nói cách đơn giản, nó cực kỳ hiểm hại đối với sự an hưởng cuộc sống.

    Sự bám luyến tựa như mực đen vấy bẩn vào bộ trang phục đẹp hay vào bức họa, bản vẽ mỹ lệ của chúng ta. Khi mực đen vấy bẩn, nó che chướng bản vẽ đẹp đẽ khiến ta không thể thưởng thức được điều gì cả. Không giống như khi ta làm rớt một giọt nước vào bức tranh rồi lau đi, một khi mực đen đã nhuốm vào bức họa, nó sẽ bám chết vào giấy vẽ và che phủ mọi hình ảnh. Ta không thể thấy rõ ràng nữa. Bỗng dưng mà tách rời ngay mực đen vấy bẩn ra khỏi giấy vẽ là rất khó . Đây cũng chính là bản chất của sự bám luyến và là lý do vì sao thầy nói rằng nó cản trở khả năng nhìn thấy nét chữ hay hình vẽ trên giấy. Đây là một thí dụ về sự bám luyến sinh khởi và che chướng khả năng tri biết sự thật về chính mình. Nó che chướng sự thật về bản ngã và khả năng nhận chân sự thật về những người khác.

    Tương tự như vậy, bám luyến hiện diện gây ra những ảo giác và người ta nhận diện bản thân bằng tri kiến lầm lạc về một cái tôi thực hữu tự tồn. Tri kiến sai lầm nhìn thấy ngã tướng hiện hữu thật có và nó lừa dối ta , khiến ta suy niệm hoàn toàn lầm lẫn về người khác, hoàn toàn trái ngược với thực tướng của họ. Bám luyến gây ra ảo giác, khiến ta thấy tướng trạng của vật và người hoàn toàn sai lạc. Ta thấy chúng theo đường lối trái ngược với thực tướng của chúng. Sự bám luyến đã che lấp khả năng nhận chân tánh giác của chính ta và kẻ khác.

    Một cách khác để lý giải bản chất của bám luyến là nó giống như việc quý vị bị mắc kẹt, mặc dù đây chưa phải là ý thật mà chỉ là ví dụ. Nếu quý vị rớt vào cái hố nước thì có thể bơi mà thoát ra – đặc biệt là ở đây, chắc chắn mọi người đều bơi được một cách dễ dàng. Nhưng nếu trong hố chỉ có bùn nhơ và ta không thể nào bơi được, vậy thì sẽ khó thoát ra ngoài. Quý vị sẽ mắc kẹt hoàn toàn trong bùn nhơ và chết chìm vì không thể nào chui ra khỏi đống bùn đó. Đấy là một cách khác để diễn đạt bản chất của sự bám luyến và tâm ta bị ràng buộc vào nó như vậy đó….

    Tựa như sân hận, bám luyến gây ra biết bao nhiêu rắc rối trong đời sống của ta và của người. Thứ nhất, khi tâm bị mắc kẹt trong tham ái chấp bám thì chưa bao giờ đó là vấn đề của riêng một cá nhân. Sự bám luyến giống như chất keo. Nếu tay ta dính đầy keo thì khi gặp bất cứ đối tượng nào quý vị cũng đều dính mắc nhiều rắc rối với đối tượng đó.  Dù cho sự vật có tinh tươm đến mấy thì khi xúc chạm, ta đều bám dính vào nó. Một cách khác nữa để giải thích là: quý vị bám luyến vào mọi thứ trên đời, quý vị không có tự do và ngay cả khi buông một thứ ra thì quý vị lại tóm ngay một thứ khác. Cứ như thể ngón tay ta như có mật ong hay keo dán, bám dính vô độ vào mọi thứ. Kể cả khi vứt bỏ một vật đi rồi, quý vị vẫn cứ luyến ái vào đó. Tham ái bám luyến hoành hành và gây ra biết bao rắc rối cho đời mình và đời người là như vậy đó.

    Mọi chướng ngại trong đời đều khởi từ những niệm tưởng đầy ắp chấp bám. Những vấn đề xảy ra trong cuộc sống hàng ngày như bất hòa trong các mối quan hệ - gia đình, lứa đôi không hòa thuận được với nhau dù chỉ một ngày – tất cả những rắc rối như vầy đều do chấp bám mà sinh ra. Nếu từ đầu mà không có chấp bám thì những chướng ngại như thế đâu có xảy ra.

    Rồi nhiều khi cũng chỉ vì tham luyến vào vật mà rất dễ nổi sân. Khi thứ mà quý vị tham luyến vào chẳng may có gì trục trặc, khi quý vị không giữ được nó, bị ai đó chiếm đoạt mất, hoặc khi có chuyện không hay này kia xảy ra, rất dễ nổi tâm sân và đố kỵ. Sân hận vô cùng tai hại và sân hận chính là nhân tố khiến tham luyến trở nên hết sức nguy hiểm.

    Rất dễ hiểu sân hận hiểm hại ra sao, song phức tạp hơn khi hiểu bám luyến độc hại như thế nào vì rằng nó cũng hơi khó nhận ra. Kỳ thực thì cũng không quá khó thấy, nó cũng khá rõ ràng. Quý vị trải nghiệm bao phiền não trắc trở rất nhiều phen mà không hề nhận ra, vì thế tri biết sự bám luyến tổn hại mình thế nào thật là khó, vì nó không dễ nhận diện. Nhận biết bám luyến vận hành ra sao, hậu quả cũng như tác hại của nó thế nào là cực kỳ quan trọng. Không chỉ bám luyến mà sân hận, vô minh cũng như bất kỳ loại vọng tưởng nào, ta luôn luôn phải điều nghiên vai trò của các loại vọng tưởng này và hậu quả tai hại của chúng. Thường xuyên kiểm soát và hiểu thấu đáo các vọng tưởng này là điều rất mực hệ trọng.

    Bây giờ nói về vô minh. Như thầy đã giảng trước đó, khi tâm chấp bám khởi, nó che chướng thực tánh của ta và của người. Nói cách khác cái tâm này che chướng tự tánh của ngã và tha. Có nghĩa là tâm chấp bám làm gia tăng vô minh. Nó khiến cho vô minh, sân hận ngày một lớn mạnh. Vô minh là một thứ tâm hết sức nguy hiểm. Vào giấc tối, khi không có trăng, sao và cũng không có ánh đèn, trời tối như mực và quý vị cho rằng mình đang bước đi đúng lối, nhưng kỳ thực, quý vị đang bước trên sỏi đá và gai nhọn. Khi bị gai đâm vào chân, ta quỵ ngã vì thương tích. Ta cứ ngỡ có một bức tường che chắn bảo vệ mình khỏi vách đá lởm chởm mà không hề biết nguy cơ có thể ngã lộn nhào. Ta có biết đâu rằng chẳng hề có bức tường bảo vệ  nào cả và vách đá kia mới nguy hiểm làm sao.

    Chúng ta du hành trong đêm tối với một tín tâm sai lạc. Vô minh nguy hiểm là thế và những quan niệm sai lầm lạc đã gây cho ta biết bao phiền toái chướng ngại. Vô minh tựa như một kẻ mang giữ những tri kiến lầm lạc, không thể thực hiện được điều gì rõ ràng và không tri biết mình sắp vấp ngã. Bản chất của vô minh giống như một kẻ không lĩnh hội được vô minh nguy hiểm đến cỡ nào. Đây chỉ là một ví dụ đưa ra để cho quý vị thấy vô minh tai hại là thế, song thực ra, không có cách gì có thể so sánh được với hiểm họa của vô minh. Một người dò dẫm trong tư tưởng lầm lạc, té nhào vào vách đá, rồi gãy chân, rồi tử vong v.v… – điều này cũng không là gì so với sự nguy hại tột cùng, không tưởng tượng nổi của vô minh, thứ chúng ta phải trải nghiệm qua thời gian dài đằng đẵng với vô vàn những nguy hiểm khác nữa và chúng ta phải kinh nghiệm không chỉ một mà là vô số lần. Khi ví von như vậy, ví dụ Thầy giảng về sự nguy hiểm của vô minh vẫn không thấm tháp vào đâu.

    Vậy ba tâm này thường được gọi là “ba độc”. Gọi chúng là chất độc rất có ý nghĩa – rất hợp lý. Ví dụ, một người khi nuốt phải chất độc và độc tố đó đi vào dạ dày bên trong cơ thể, anh ta sẽ không còn khỏe khoắn nữa mà sẽ phát bệnh. Nhưng những độc tố đó chỉ là thứ bên ngoài, được làm ra bởi vật chất. Còn những độc tố khác như vô minh, sân hận và bám luyến lại là độc tố bên trong. Ăn các độc tố bên ngoài thì quý vị bị ốm đau hành hạ – chúng ta bị choán đầy ảo giác rồi nôn mửa, gây hại cho cuộc sống. Tương tự, chứa chấp ba thứ độc trong tâm, quý vị sẽ luôn luôn bị đau khổ phiền não giày vò.

    Trước hết, khi tâm bị ba thứ độc ràng buộc, nó không còn minh mẫn cường tráng, nó là một thứ tâm bệnh hoạn. Rồi với ba thứ độc này, quý vị tạo tác những hành vi bất thiện, những ác nghiệp. Nói cách khác, quý vị tạo tác bất thiện nghiệp từ thân, ngữ và ý. Vì tạo bất thiện nghiệp, bằng những cách lầm lạc nên hậu quả và tác hại mà chúng ta phải gánh chịu mãi mãi là chính phiền não khổ đau triền miên.  Luôn luôn có chướng ngại mọc ra và ta không thể thọ nhận nguồn phúc lạc, ngay cả khi kỳ vọng sẽ hưởng phúc lạc từ hành động đó. Ví dụ, một người ăn mật ong trộn chất độc, kẻ vô minh này không biết đó là mật ong độc hại mà chỉ thấy thứ mật ong này đầy tinh khiết vì vị thơm ngọt của nó, y cứ ăn hoài ăn hoài. Kết quả là gì?  Kết quả là thân thể y ngày càng phát bệnh và đau đớn ngày một nhiều.

    Cũng giống như thế với bất kỳ độc tâm nào: sân hận, bám luyến hay vô minh. Bất kỳ hành động sai khuấy hoặc các tà hạnh tạo tác nào từ thân, ngữ và ý cũng đều giống như gã nuốt phải mật ong chứa chất độc kia. Y cứ nghĩ là mình đang thưởng thức món mật ong tinh khiết thơm ngọt. Y cho rằng mật này ăn vào chẳng làm sao hết. Vậy đó, cái tâm thông thường thì sẽ giống như thế!

    Vì các hành vi của thân, ngữ, ý tạo tác từ ba độc tâm là sai quấy, bất tịnh, nên hậu quả luôn là phiền não. Những hành vi đó không mang lại nguồn phúc lạc cho quý vị. Các đau khổ bất hạnh về cả thể xác lẫn tinh thần mà quý vị phải gánh chịu trong đời này, từ lúc thoát thai đến giờ, tất cả chướng ngại phát sinh từ trước đến giờ  là hậu quả của ác nghiệp bất tịnh tạo tác từ ba độc. Do vậy, ba độc tâm là nguyên nhân cội rễ của mọi khổ đau phiền não.

    Chính vì thế, nếu không có phương pháp thực hành, không nương dựa vào chánh pháp mà nương dựa vào những yếu tố bên ngoài, quý vị sẽ không thể triệt phá được nguyên nhân khổ đau, tức ba độc tâm. Không gì có thể hủy diệt được chúng trừ việc thực hành chánh Pháp.

    Read more »
  • Quán đảnh mật tông - (Mật tông thiên đình)

    Vạn pháp Quy Tâm

        (Đây là lá linh phù tượng trưng cho 5 phương Phật và 5 đạo binh Trời, tượng trưng cho ngũ chi của các tôn giáo trong vũ trụ.

    ...Ngày xưa, trong thời kỳ bí truyền, các chư sư đã tận tay trao truyền cho nhau trải qua mấy ngàn năm nay. Hiện nay theo lệnh của Thiên Đình, chư sư cho phổ truyền lá thiên thơ này để phổ độ chúng sanh chứng minh sự hiện hữu của các thánh thần và trợ độ cho con người để quân bình đời sống tâm linh và văn minh vật chất)
    (Mọi thắc mắc xin vui lòng đọc kĩ hết tài liệu)

    Mật tông thuộc về Đại thừa, lấy việc trì thần chú làm cốt yếu để tu hành, chủ trương nương nhờ tha lực của chư Phật vì con người nhỏ bé đã không thể tự lo nổi đời sống ở thế gian nầy thì làm sao có thể tự lo cho đời sống linh hồn ở cõi sau .Kinh sách cũng nói thế gian là biển khổ, nơi con người ai cũng phải trôi nổi, chìm đắm bất chợt thì không ai có thể tự mình tìm đến cõi Niết Bàn
    Hiện nay là thời kỳ mạt pháp, chúng sanh bịnh khổ rất nhiều nên Chư Phật mười phương cho phép Mật tông được phổ truyền tâm pháp để cứu vớt chúng sanh biết con đường tu hành kịp thời tiến hoá.Thượng đế, thánh thần,Đức Chúa và chư Phật mười phương là những vị có đủ quyền uy và phước báu để trợ độ cho con người không những là trong mọi khía cạnh của đời sống hiện tại mà còn tiếp dẫn cho linh hồn được về cõi Niết bàn (thiên đàng) hay các cõi Tịnh độ của chư Phật.
    Cho nên đa phần các tôn giáo đều cầu nguyện ơn trên phù hộ ngoại trừ một số nhỏ con người tự cao tự đại, không nhìn nhận con người chỉ là con kiến trong vũ trụ mà nghĩ là kiến có thể tự mình giải thoát mà bay về trời. Nếu quả được như vậy thì cũng không ai cần phải tu hành hay cầu nguyện làm gì. Và Cũng như Đại thừa, Thiên Chúa giáo đặc biệt nhấn mạnh con người phải cầu xin ân cứu rỗi của Thượng Đế vì chỉ có ân cứu rỗi thì con người mới có được một phần nào an vui dưới đất, phải được ân sủng của Thượng đế thì mới được lên Thiên đàng chứ không thể chỉ dựa vào phẩm hạnh, đạo đức của bản thân hay các pháp tu luyện.
    Nguồn gốc
    Ngày xưa Mật tông được cho là bí pháp chỉ chân truyền cho đệ tử, không có phổ truyền ra cho đông người. Do vậy mà Mật tông luôn là một bí pháp khó hiểu đến tận ngày nay..
    Những buổi lễ điểm đạo (lễ xin học đạo) cho quần chúng mặc dù dùng chữ điểm đạo nhưng thực tế chỉ là buổi lễ quy y theo Hiển giáo, mà người thọ tâm ấn phần lớn chỉ nhận được sợi chỉ, tấm khăn, hay được rưới nước trên đảnh mà không có được thần lực gia trì, hay được chứng nghiệm sự mầu nhiệm nào rõ ràng.
    Thầy Già đã tập trung Mật tông của thế giới qua ngã Nam Tông (Thái Lan, Lào, Cao Miên, Miến Điện) và Bắc Tông (qua kinh sách từ nơi hòa thượng Thích Viên Đức, bản thân Hoà thượng cũng chỉ được phép bí truyền) và được sắc lệnh của Thiên Đình (Đức Đại Nhật Như Lai) để truyền bá Mật tông thế giới cho đại chúng, chứ không phải nhận sự truyền thừa từ những hệ phái nào ở dưới đất. Ngoài ra bởi vì Mật tông xuất phát từ Thượng Đế nên mới bao gồm Mật tông của tất cả các tôn giáo, bằng chứng là khi điểm đạo cho người Thiên chúa giáo, Tin lành, Hồi giáo, Ấn giáo theo niềm tin của giáo chủ của họ thì tất cả đều nhận được ấn chứng, sau đó thì họ vẫn tu tập theo nghi thức của tôn giáo họ, không cần phải trì thần chú, người Thiên Chúa giáo điểm đạo rồi đọc kinh Lạy Cha thay cho thần chú vẫn được linh ứng.
    Thầy Già -Cư sĩ Triệu Phước – Đức Quý
    Sinh năm 1948 tại tỉnh Trà Vinh. Tốt nghiệp tiểu học tại Trà Vinh.
    11 đến 17 tuổi: học nội trú trường dòng Lasan (Mossard Thủ Đức), tốt nghiệp Brevet Elementaire.

    17 đến 20 tuổi: học nội trú trường dòng Lasan Đà Lạt (College D’Adran) tốt nghiệp tú tài đôi Pháp (Baccalaureat de l’enseignement secondaire).

    20 tuổi đến 21 tuổi: bị tổng Động viên và giải ngũ với cấp bậc thiếu úy hải quân.

    22 tuổi đến 25 tuổi: tốt nghiệp cử nhân luật khoa Sài-gòn ban công pháp quốc tế.

    25 tuổi đến 27 tuổi: Giáo sư Pháp văn.

    28 tuổi đến 29 tuổi: trường chay 2 năm, tu tập Mật tông và nghiên cứu các tôn giáo (Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Ấn Độ giáo, Thông Thiên Học, Cao Đài, Hòa Hảo v.v…), tiếp cận và tìm hiểu các giáo phái huyền bí tại Việt Nam.

    30 tuổi: Truyền bá Mật Tông và trừ tà tại Việt Nam.

    Cuối năm 1981: Định cư tại Hoa Kỳ theo diện ODP.

    1982: Viết 5 loạt bài về các hiện tượng thần bí tại Việt Nam trên Báo Trắng Đen.

    1983: Lần lượt ấn hành các bản kinh Mật Tông quyển Thượng, Trung và Yếu Lược và truyền bá môn thần bí học tại Hoa Kỳ và các nước.

    1981-2005 : Định cư và sống 24 năm liền tại tiểu bang Colorado Hoa kỳ.

    Từ đó đến nay đã trực tiếp và gián tiếp điểm đạo cho trên 10.000 người thuộc đủ mọi tôn giáo (Phật giáo, Công Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo, Cao Đài, Hoà Hảo…) và vô thần bao gồm từ giới khoa bản (thạc sĩ, tiến sĩ, bác sĩ, luật sư, kỹ sư, các nước Hoa Kỳ, Âu Châu, Liên Xô, Ba Lan, Trung Hoa, v,v…) đến nay các tướng tá Việt Nam Cộng Hòa và Cộng sản cũng như cho các giới lao động buôn gánh bán bưng, các giới giang hồ lầu xanh, bài bạc.
    Người được điểm đạo ,họ được cho phép tự do theo bất cứ tôn giáo nào miễn là giữ 5 giới cơ bản :-không trộm cắp - không nói dối -không sát sinh- không tà dâm -không uống rượu và sử dụng các chất kích thích, gây nghiện . Như vậy là đủ.
    NGŨ BỘ CHÚ
    Ngũ Bộ Chú là một nghi thức trì niệm của Mật Giáo gồm có 5 Chú Đà La Ni là : Tịnh Pháp Giới Chân Ngôn, Văn Thù Nhất Tự Hộ Thân Chân Ngôn, Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn, Chuẩn Đề Cửu Thánh Tự Chân Ngôn và Nhất Tự Kim Luân Phật Đỉnh Chân Ngôn. Nguyên khởi của năm Bộ Chú này thì không biết rõ, chỉ nhận biết được qua quyển: Hiển Mật Viên Thông Thành Phật Tâm Yếu do Ngài Thích Đạo Chân ở chùa Kim Hà trên núi Ngũ Đài biên tập. Từ đấy trở đi, nghi thức này được phổ truyền trong Nhân gian; đến nay hầu như trong giáo đồ Phật Giáo Đại Thừa, ai cũng có thể thuộc lòng năm câu Chú này.

    Chú Đarani có sức huyền diệu vô cùng tận, vốn của chư vị thành đạo, Phật, Bồ-tát, và các Thánh Thần truyền trao cho loài người.Ngoài ra chú còn là những kí hiệu, lời hứa khả của chư vị Phật-Thánh đã lập nguyện độ sanh cho những ai phát tâm chí thành trên đường đạo đức. Đó là những nguyện lực mà các Ngài để lại trước khi tịch diệt Tầm quan trọng của NBC | Thế giới huyền bí - Nơi khám phá những điều huyền bí - Thế giới vô hình, tín ngưỡng Việt Nam, thế giới Việt Nam
    Điểm đạo
    Đây là pháp tu Mật tông phật giáo. Người thọ pháp có thể TỰ ĐIỂM ĐẠO cho mình hoặc nhờ người khác ĐIỂM ĐẠO giúp cho. Xin nói ngay là: Điểm Đạo cho người khác cũng giống như là thay họ nộp “hồ sơ xin nhập học” với bề trên vậy thôi, công việc còn lại là do Thánh Thần quyết định. Tức là năng lực điểm đạo không từ nơi người điểm đạo mà từ Thánh Thần. Nên các đệ tử của tông phái sau một thời gian ngắn tu học là có thể đi thực tập điểm đạo cho người khác rồi. Còn Tự Điểm Đạo tức là tự mình nộp hồ sơ xin nhập học. Đơn giản vậy thôi.
    Sau khi được điểm đạo thì người thọ pháp có thể hành trì bất cứ Thần Chú nào, tùy thích. Không thích trì chú thì có thể niệm A-di-đà Phật, niệm Quan Thế Âm Bồ tát hay bất cứ vị Phật vị Bồ tát nào mà mình tôn thờ. Người Thiên Chúa giáo thì cứ tụng kinh cầu nguyện theo kinh điển của Thiên Chúa giaó…

    Nếu bạn đạo từ các tông phái khác thắc mắc về việc muốn gia nhập để Học khoa thần bí Mật tông là đúng hay sai xin vui lòng đọc thêm tại link đây:

     



    **** Ai có duyên gặp được kinh sách Mật tông, muốn nương nhờ vào pháp Mật tông để tu học mà không gặp được thầy Mật tông thì có thể tự điểm đạo mà không gọi là trộm pháp vì đã được tông phái cho phép, trừ khi là có tâm muốn lợi dụng pháp đó vào việc bất chánh. ( link: Tội Trộm Pháp trong Mật tông | Thế giới huyền bí - Nơi khám phá những điều huyền bí - Thế giới vô hình, tín ngưỡng Việt Nam, thế giới Việt Nam)

    Tự điểm đạo vẫn có thể tự học và vẫn có được Thánh thần gia hộ cho một phần nào, nhưng không thể tiến xa vì lãnh vực siêu hình rất khó hiểu và khó học, mặc dù có được vài cảm nhận về sự linh thiêng nhưng khi không hiểu được ý nghĩa thì sanh ra hoang mang, hay sợ hãi. Tốt hơn hết là phải có Thầy để lý giải cho những bài học siêu hình và những thử thách của Thánh thần.

    Tự tu tự học bằng cách trì niệm theo những pháp môn nào đó đều mang lại một chút linh ứng nhưng rồi cũng sẽ không đi tới đâu ví như học sinh không vào trường học thì không thể tốt nghiệp .Muốn thực nghiệm về năng lực thần bí sơ khởi, người thọ pháp chỉ cần:
    PHƯƠNG PHÁP TỰ ĐIỂM ĐẠO:
    1/ Đối trước tượng Phật, tượng Chúa hay tượng của Giáo chủ mình tôn thờ, hoặc trước quyển Thánh kinh hay các kinh sách của Phật, , khấn nguyện thành tâm cầu xin học đạo của Thánh hiền và xin tự nguyện giữ ngũ giới cấm.
    2/ Lấy một ly nước nhỏ và niệm danh hiệu vị mình tôn thờ 3 lần.

    3/ Chắp tay cao trên trán (không tựa vào đầu) và tiếp tục niệm danh hiệu vị mình tôn kính. Khoảng 5 tới 30 phút, đôi cánh tay của hành giả sẽ nhận được một luồng thần lực chuyển động, hay kiết ấn hoặc mở mắt thứ 3 thấy các cảnh giới siêu hình.
    4/ Muốn nghỉ buông tay ra sẽ nghỉ.
    Điểm đạo chỉ là buổi lễ nhập môn vào lớp học, từ đó đệ tử phải nỗ lực học đạo thì mới đắc quả chứ không thể ỷ lại có vị Phật sau lưng độ cho mình thì không cần học. Ai không đi học thì không thể tốt nghiệp ra trường, người tu dù có Phật độ cho cũng phải có quá trình học đạo vì Phật không thể giúp cho người không chịu học.
    ****TÔN CHỈ : Quan điểm của Mật tông là truyền đạo vô vụ lợi, điểm đạo không cần phải gặp gỡ, không cần phải tụ họp, và không cần bắt buộc phải tôn kính vị đạo sư .Sở dĩ Hội chủ trương không tổ chức, không tụ họp đó là bởi vì Thầy Tổ đã thấy trước khi tụ tập đông người luôn xảy ra những chuyện không hay, nhẹ thì xích mích, bất hòa, thị phi, nặng thì sẽ bị người khác nhân danh đạo để chỉ huy, xỏ mũi, lèo lái vào con đường bất chánh, không có lợi ích gì cho tâm linh người tu.

    Người nào kêu gọi tập họp đám đông cũng có âm mưu muốn lãnh đạo đám đông, những kẻ đồng mưu họp đảng bao giờ cũng để đi làm chuyện xấu, đi ăn cướp hay biểu tình chẳng hạn.
    Là người tu chân chính thì không có bất cứ lý do gì để tụ họp lại cho đông vì tu hành là việc riêng tư của mỗi người, tự cá nhân mỗi người phải nỗ lực học hỏi chứ không phải họp nhau lại để tu chung cho vui, hay là tu có tính cách trình diễn cho người ta coi. Dù có mấy chục ngàn người cũng không bao giờ tụ họp đến vài chục người. Ngay cả việc điểm đạo cũng không cần gặp mặt trực tiếp, diễn đàn không tạo phương tiện tin nhắn để các thành viên liên lạc với nhau, đó là để bảo vệ cho đôi bên, tránh những việc gặp gỡ, nhân danh đạo để lợi dụng lẫn nhau.

    Người tu chỉ cần có tâm pháp (được điểm đạo) là có thể tu tại gia, học đạo tạivutruhuyenbi.com có Tổ, Thầy hướng dẫn, từ từ được khai mở trí tuệ, tâm linh được tiến triển, hành đạo lập công đức.

    Ăn chay.

    Ăn chay là tự do của mỗi người, ai muốn ăn chay thì cứ việc ăn chay, cho đến khi nào chịu không nổi nữa thì ngưng. Ăn chay thì đừng chấp vào chay, đừng tưởng là ăn chay mới đắc đạo, hay nói người ăn thịt là thấp hèn không thể thành đạo, người ăn chay từ bi hơn, thông minh hơn người ăn mặn, hay: ăn chay mới thành Phật còn ăn mặn thì thành ma quỷ, đó là nói trái với sự thật. Những điều đó chỉ là suy nghĩ riêng của mình mà thôi, không phải là chân lý đâu. Và những lý thuyết trái với sự thật thì gọi là tà thuyết.
    Hãy nhìn trong thiên nhiên, loài súc vật ăn chay đều là mồi cho cọp beo (loài ăn thịt). Thực tế trước mắt, thú vật ăn chay hay con người ăn chay cũng đều không được gọi là Phật hay Bồ tát. Ai ưa thích ăn gì thì cứ việc ăn, không có trúng hay sai gì trong chuyện ăn uống. Còn nếu tin là ăn chay có sức khỏe thì cứ việc ăn chay. Nếu như tâm còn ưa thích đến chùa thì cứ tự nhiên vào chùa, nhà thờ, hay đền thờ của tôn giáo nào cũng được. Các tổ Thiền tông, Mật tông không ai nói việc đi chùa là cao nhưng dù sao thì đi chùa cũng tốt hơn là đi cờ bạc, uống rượu, hút xách, hay đi nhảy đầm...
    **Cũng như vậy việc có chồng/vợ , có người yêu đối với người tu tại gia thì không ảnh hưởng gì đến việc học đạo .Tất cả đều có nhân duyên ,quý vị đừng quá lo lắng

    Lời kết

    Người được trao truyền tâm ấn, có nghĩa là được điểm đạo theo phương pháp của Thầy Già để quy y với Trời Phật, Thánh thần, ngay lập tức nhận được ấn chứng siêu hình, được nghe, được thấy chư Phật và các cõi trời, được Phật lực tác động vào thân để chứng minh là hành giả đã được quy y, nhận được tâm ấn. Những ấn chứng nhiệm mầu xảy ra trong buổi lễ điểm đạo là những chứng minh cho thấy có sự phối hợp rõ ràng của đạo sư dưới đất và Chư Phật mười phương trên trời.Có tâm ấn mới là quan trọng nhất; có tâm ấn là được thâu nhận vào hệ thống của thiên đình, được đứng trong hàng ngũ công nhân viên, hay năm đạo binh trời của thiên đình mà làm việc cho trời; có tâm ấn thì mới được Chư Phật, thánh thần hướng dẫn tu học, được nhận những mật khải, những huyền năng và rất nhiều ân phước trong đời sống, có tâm ấn khi ra làm đạo sẽ luôn nhận được những ấn chứng mầu nhiệm và sự hỗ trợ của thiên đình. Đó là một sự thật hiển nhiên đã được minh chứng.

    Người tu học tốt nhất là nên tránh những lý luận và những triết thuyết dông dài về đạo nói chung và về Mật tông thiên đình nói riêng để tránh lạc vào mê hồn trận của những người không bao giờ thực nghiệm hay thực chứng các vấn đề siêu hình. Càng lý luận về Mật tông thì càng xa rời Mật tông vậy. Hơn thế nữa, chỉ có tu trì một thời gian ngắn các đệ tử đều có năng lực nhiệm mầu từ chư Phật để điểm đạo lại cho người khác. Việc này đã và đang được các đệ tử thực hành rất dễ dàng qua Internet hay qua điện thoại. Qua 30 năm đã có trên 10,000 người được điểm đạo vào Mật tông mà đại đa số là do đệ tử của Thầy Già truyền lại nên người ta chỉ biết tiếng mà không hề gặp Thầy Già.

    Người tu Mật tông của thiên đình ,cuộc sống vẫn như người trần tục, chỉ trì Ngũ Bộ Chú và giữ Ngũ Giới Cấm thôi, sau này hiểu rõ đạo lý thì ra đời làm đạo, giúp người, điều này cũng ứng với tư tưởng của Ngài Đại Bồ tát Duy Ma Cật .

    Tài liệu trên đây đã được trích dẫn từ các trang web vutruhuyenbi.com ,thegioivohinh.com, mattongdiemdao.tk và cuốn sách Mật tông tinh hoa yếu lược . Xin chân thành cảm ơn Tổ thầy , các sư huynh ,sư tỉ đã gián tiếp giúp đệ hoàn thành tài liệu này để mọi người có thể hiểu biết đến bộ môn hình siêu hình này như mong muốn của Tổ thầy

    Source: Yume

    Read more »
  • NĂM PHÁP TRONG KINH LĂNG-GIÀ

    NĂM PHÁP TRONG KINH LĂNG-GIÀ
    [Tư tưởng đặc biệt quan trọng trong giáo lý Đại thừa]
     
    *Trích nguyên một đoạn từ chương 6, Kinh Thánh Pháp Nhập Lăng-già:

     

    "पुनरपरं महामते पञ्चधर्माः-निमित्तं नाम विकल्पस्तथता सम्यग्ज्ञानं च। तत्र महामते निमित्तं यत्संस्थानाकृतिविशेषाकाररूपादिलक्षणं दृश्यते तन्निमित्तम्। यत्तस्मिन्निमित्ते घटादिसंज्ञाकृतकम्-एवमिदं नान्यथेति, तन्नाम। येन तन्नाम समुदीरयति निमित्ताभिव्यञ्जकं समधर्मेति वा, स महामते चित्तचैत्तसंशब्दितो विकल्पः। यन्नामनिमित्तयोरत्यन्तानुपलब्धिता बुद्धिप्रलयादन्योन्याननुभूतापरिकल्पितत्वादेषां धर्माणां सा तथतेति। तत्त्वं भूतं निश्चतो निष्ठा प्रकृतिः स्वभावोऽनुपलब्धिस्तत्तथालक्षणम्। मया अन्यैश्च तथागतैरनुगम्य यथावद्देशितं प्रज्ञप्तं विवृतमुत्तानीकृतम्, यत्रानुगम्य सम्यगवबोधानुच्छेदाशाश्वततो विकल्पस्याप्रवृत्तिः स्वप्रत्यात्मार्यज्ञानानुकूलं तीर्थकरपक्षपरपक्षश्रावकप्रत्येकबुद्धागतिलक्षणं तत्सम्यग्ज्ञानम्। एते च महामते पञ्च धर्माः। एतेष्वेव त्रयः स्वभावाः, अष्टौ च विज्ञानानि, द्वे च नैरात्म्ये, सर्वबुद्धधर्माश्चान्तर्गताः। अत्र ते महामते स्वमतिकौशलं करणीयम्, अन्यैश्च कारयितव्यम्। न परप्रणेयेन भवितव्यम्॥

    तत्रेदमुच्यते -

    पञ्च धर्माः स्वभावश्च विज्ञानान्यष्ट एव च।

    द्वे नैरात्म्ये भवेत्कृत्स्नो महायानपरिग्रहः॥ ५॥

    नामनिमित्तसंकल्पाः स्वभावद्वयलक्षणम्।

    सम्यग्ज्ञानं तथात्वं च परिनिष्पन्नलक्षणम्॥ ६॥"


    [ सद्धर्मलङ्कावतारसूत्रम् Saddharmalaṅkāvatārasūtram , ६ क्षणिकपरिवर्तो नाम षष्ठः 6 kṣaṇikaparivarto nāma ṣaṣṭhaḥ | , Vaidya, The Mithila Institute of Post-Graduate Studies and Research in Sanskrit Learning, Darbhanga, 1963]

    *Phần dịch theo nguyên văn Sanskrit:

    Lại nữa, này Mahāmati (Đại Huệ)! Có năm pháp (pañcadharmāḥ):  Đó là, tín hiệu (nimittaṃ)[1], từ mô tả (nāma), cấu trúc mang tính ngôn ngữ (vikalpaḥ)[2], như như (tathatā) và chánh trí (samyagjñānaṃ).

    Này Mahāmati! Trong đó tín hiệu, nghĩa là, những gì mà có các đặc điểm như: hình thể, khuôn khổ, tính đặc thù, màu sắc, dấu hiệu v.v…  Những cái đó gọi là tín hiệu[3].

    Từ nơi các tín hiệu này, mà các ấn tượng được sinh khởi, ví như một cái lọ v.v... Y theo đó, người ta có thể diễn đạt: “Đây là cái này, cái kia, mà không phải là cái khác”. Cái đó gọi là “từ mô tả”[4].

    Này Mahāmati!  Khi “từ mô tả” được phát biểu rõ ràng như thế, và tín hiệu được xác định cụ thể, thì liền có “cấu trúc mang tính ngôn ngữ”, phát biểu rằng: “Đây là Tâm”, “Đây là những gì thuộc về Tâm”[5]. Từ đó, một “từ mô tả” được phát ra tương ưng[6] với một hình thái, hay một đối tượng nào đó, có bản thể được nhận biết giống như thế.  Cái đó, gọi là “cấu trúc cấu trúc mang tính ngôn ngữ”[7].

    Các từ mô tả ấy và các tín hiệu ấy, tận cùng là “bất khả đắc”, như là các thực thể tính[8], khi “kiến lập trí”[9] bị đập vỡ, và trong chiều kích hỗ tương tồn tại của tất cả mọi thứ, được xác định là không còn bị nhận thức và ấn tượng. Đó gọi là “như như” của các pháp[10].

    “Như như” này, có thể được mô tả đặc tính như là “chân đế”, là “hữu thể”, là “biết trực tiếp”, là “tận cùng”, là “căn nguyên”, và là “tự tính”.

    Điều này đã được tự thân Ta (Phật) và các đức Như Lai khác thể nghiệm, thi thiết đúng như thực, xác chứng, công khai tuyên bố, và diễn thuyết rộng rãi.

    Hoặc có ai, chứng nghiệm điều này, hiểu được [sự thật] một cách chính xác toàn diện, không phải là thường tồn, cũng không phải đoạn diệt, thì lập tức “cấu trúc cấu trúc mang tính ngôn ngữ” bị chấm dứt, liền phát sinh trạng thái tùy thuận với phương tiện của Thánh Trí ngay trong nội tâm, đây là một trạng thái, mà đó không phải là kết quả đạt được do quá trình tranh luận của các triết gia, cũng không phải là sở đắc của các hạng Thanh văn và Bích Chi Phật. Đó gọi là Chánh trí[11].

    Này Mahāmati!  Đây là năm Pháp, ba tự tính, tám thức, hai vô ngã; và hết thảy chân đế của Phật đều được thâu nhiếp ở vào trong đó.

    Này Mahāmati! Trong điều này, Ông hãy tự mình, bằng Trí Tuệ mà khảo nghiệm kỹ lưỡng, và khiến cho những người khác cùng thực hành giống như thế, đừng để bản thân bị điều khiển dẫn dắt bởi người khác.

    Do đó,  [Như Lai] tuyên thuyết rằng:

    “Năm pháp, cùng tự tính,
    Tám thức, hai vô ngã.
    Hết thảy nó đều thâu nhiếp Đại thừa. //5//
    “Từ mô tả” và “tín hiệu”,
    Cùng với "cấu trúc mang tính ngôn ngữ”,
    Đây là hai hình thái đầu của Tự tính.
    Chánh trí và như như,
    Đây là hình thái của viên thành thật[12]. //6//"

     


    PN. dịch và chú.
    Read more »
RSS