Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Pháp Ðăng
Việt dịch: Hòa thượng Thích Trí Tịnh
Hòa thượng Thích Trí Thoát tụng
Read more »
Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Pháp Ðăng
Việt dịch: Hòa thượng Thích Trí Tịnh
Hòa thượng Thích Trí Thoát tụng
Read more »
Chủ động cái chết để tái sinh trong một kiếp sống tốt đẹp hơn
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Dịch giả: Hoang Phong
Người đọc: Hùng Thanh, Kiều Hạnh,
Kim Phượng, Thy Mai, Ngọc Mỹ, Nam Trung
![]()
Nội dung:
1. Lời Mở Đầu Và Ý Thức Về Cái Chết
2. Tự Giải Thoát Khỏi Sự Sợ Hãi
3. Chuẩn Bị Cho Cái Chết
4. Vượt Qua Những Chướng Ngại Cản Trở Một Cái Chết
5. Tạo Những Điều Kiện Thuận Lợi Vào Giờ Phúc Lâm Chung
6. Thiền Định Trong Khi Chết
7. Cấu Trúc Bên Trong
8. Ánh Sáng Trong Suốt Của Cái Chết
9. Phản Ứng Trong Giai Đoạn Chuyển Tiếp
10. Hướng Về Sự Tái Sinh Tích Cực
11. Phụ lục: Bố Cục Bài Thơ Và Tóm Lược Những Lời Khuyên
Read more »
BA LẦN CẢNH CÁO
KHI SẮP NHẬP NIẾT BÀN CỦA PHẬT THÍCH CA
Thích Duy Lực
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ Sơ thiền rồi Nhị Thiền, Tam thiền lần lượt thuận nghịch như vậy ra vào chín bậc thiền định xong, nói với đại chúng rằng:
"Ta dùng Bát Nhã thâm sâu quán khắp tất cả lục đạo trong tam giới, căn bản tánh lìa, cứu cánh tịch diệt, đồng với tướng hư không, vô danh vô thức, tình chấp đoạn diệt, vốn là bình đẳng, chẳng cao chẳng thấp, chẳng thấy chẳng nghe, chẳng tri chẳng giác, chẳng thể trói buộc, chẳng thể giải thoát, vô chúng sanh, vô thọ mạng, chẳng sanh chẳng khởi, chẳng tận chẳng diệt, phi thế gian, phi phi thế gian, Niết bàn sanh tử đều bất khả đắc, nhị tế (trước, sau) bình đẳng, các pháp bằng nhau, việc làm đồng như chẳng làm, cứu cánh yên tịnh. Từ pháp vô trụ, hành theo pháp tánh, dứt tất cả tướng, chẳng có một vật, pháp tướng như thế, đều bất khả đắc. Những kẻ biết được gọi là người xuất thế gian; việc này chẳng biết gọi là sanh tử bắt đầu. Các người cần phải đoạn dứt vô minh, diệt sự bắt đầu của sanh tử."
Lại nói với đại chúng rằng:
"Ta dùng Ma Ha Bát Nhã quán khắp hữu tình vô tình trong Tam giới, tất cả người và pháp đều là cứu cánh, chẳng có kẻ trói buộc, chẳng có người giải thoát, vô trụ vô y (chẳng nơi nương tựa) chẳng thể nhiếp trì, chẳng vào tam giới, chẳng ra tam giới, vốn là thanh tịnh, chẳng cáu bẩn, chẳng phiền não, bằng như hư không, bất bình đẳng, phi bất bình đẳng, tất cả tư tưởng động niệm trong tâm đều ngưng nghỉ, pháp tướng như thế gọi là Đại Niết Bàn, chơn thật thấy được pháp này gọi là giải thoát, phàm phu chẳng thấy gọi là vô minh."
Nói xong nhập Siêu thiền lần thứ ba, từ Sơ thiền cho đến Diệt Tận Định, rồi từ Diệt Tận Định trở ngược lại cho đến Sơ thiền, thuận nghịch như vậy vào Siêu thiền xong, lại nói với đại chúng rằng:
"Ta dùng Phật nhãn quán khắp tất cả pháp trong tam giới, thực tế của vô minh, tánh vốn giải thoát, tìm khắp mười phương đều bất khả đắc. Vì căn bản của vô minh chẳng có, nên nhánh lá của vô minh đều saün giải thoát; vì vô minh giải thoát nên lão tử đều được giải thoát. Do nhân duyên này, nay ta an trụ nơi Thường Tịch Diệt Quang (ánh sáng thường tịch diệt), gọi là Đại Niết Bàn."
Lời cảnh cáo kể trên là lời khai thị do lòng đại bi bất khả tư nghị của Đức Phật nói ra. Kẻ gặp được sự dạy bảo này, nên lấy xương mình làm bút, lột da mình làm giấy, chích máu mình làm mực, viết ra để bên cạnh mình, chẳng nên giây phút tạm quên, chẳng nên sát na mất sự chiếu soi.
Ví như trong lần khai thị thứ nhất rằng: "Quán khắp tất cả chúng sanh lục đạo, núi sông đất đai trong tam giới, căn bản tánh lìa, cứu cánh tịch diệt."
Lời khai thị thứ nhì: "Quán khắp hữu tình vô tình trong tam giới, tất cả người và pháp đều là cứu cánh."
Lời khai thị thứ ba: "Quán khắp tất cả các pháp trong tam giới, thực tế của vô minh, tánh vốn giải thoát."
Cho nên, khắp pháp giới, tận mười phương, tất cả hữu tình, vô tình, hữu tánh, vô tánh, núi sông đất đai, cỏ, cây, người hay súc vật, chẳng ở trong tam giới, chẳng ngoài tam giới; chẳng theo sanh tử, chẳng trụ Niết Bàn, đều đồng một chơn như, nhất tâm diệu tánh. Tín giải như thế, đốn vào Nhất Thừa, ngoài ý chỉ kể trên chẳng có bí quyết nào vậy.
Hỏi: “Theo tục đế thì thánh phàm khác nhau, phàm phu vọng chấp thấy nghe, ngoài tâm kiến lập các pháp, bậc Thánh đã liễu ngộ nhất tâm, lại sao lại đồng thấy nghe như phàm phu?
Đáp: “Bậc Thánh dù có thấy nghe, nhưng chẳng có chấp trước, luôn luôn diễn đạt vạn vật chẳng thật, đồng như huyễn hóa”.
Như Kinh Đại Niết Bàn, Bồ Tát Ca Diếp bạch Phật rằng: “Thế Tôn, nếu phiền não từ điên đảo tưởng sinh ra, thì tất cả các bậc Thánh đều thật có điên đảo tưởng, mà tại sao chẳng có phiền não, vậy nghĩa này là thế nào ?”.
Phật hỏi: “Tại sao nói bậc Thánh có điên đảo tưởng ?”.
Ngài Ca Diếp nói: “Thế Tôn, tất cả bậc Thánh thấy trâu cũng gọi là trâu, thấy ngựa cũng gọi là ngựa, thấy nam nữ, lớn nhỏ, nhà cửa, xe cộ và khứ lai đều cũng vậy, thế là điên đảo tưởng rồi !”.
Phật nói : “Phàm phu có hai thứ tưởng, một là thế lưu bố tưởng (thế gian phổ biến lưu hành), hai là trước tưởng (tư tưởng chấp thật). Bậc thánh chỉ có thể lưu bố tưởng, chẳng có trước tưởng. Phàm phu vì sự cảm giác sai lầm, nơi thế lưu bố mà sinh ra trước tưởng, bậc Thánh vì hay chiếu soi thật tướng; nơi thế lưu bố chẳng sinh trước tưởng, nên phàm phu gọi là điên đảo tưởng bậc Thánh dù biết nhưng chẳng gọi là điên đảo tưởng. Lại cảnh vốn tự không, đâu cần phải phá hoại sắc tướng rồi mới là không ! Vì chơn tâm của bậc Thánh thường tự chiếu, chẳng nhờ nhân duyên mới sinh khởi, phàm phu thì chấp trước tri kiến, có năng có sở”. Nên Triệu Luận nói : “Hễ có sở tri thì có sở bất tri, chơn tâm của bậc Thánh vô tri nên vô sở bất tri, cái tri của bất tri mới được gọi là Nhất thiết tri”.
Vậy kinh nói: “Chơn tâm của bậc thánh vô tri, vô sở bất tri là đáng tin lắm. Cho nên bậc thánh nơi tâm trống rỗng mà sự chiếu soi chẳng thiếu sót, suốt ngày tri mà chưa từng tri là vậy. Cũng như nước trong thì thấy bóng, đâu có sinh tâm năng sở, cảnh và tâm đều không, chẳng có cái tư tưởng giác tri”.
Trong kinh Lăng Già, Phật nói với Bồ Tát Đại Huệ rằng: “Cảnh thế gian như bóng tượng trong gương, và cảnh giới chiêm bao, nhưng chẳng phải trước mắt của bậc thánh không có cảnh thế gian. Phàm phu vì tư tưởng mê lầm nên đuổi theo cảnh chấp thật, gọi là vô minh điên đảo, chẳng phải minh trí. Bậc Thánh thấy cảnh đồng như phàm phu, mà chẳng có tâm niệm chấp trước, nên chẳng gọi là điên đảo”.
Giải thích rằng: Như thí dụ kể trên tỏ rõ cảnh chỉ có một, mà sự thấy có khác. Bậc Thánh chẳng phải không thấy cảnh thế gian, mà khi thấy đồng như thấy mặt trăng trong nước và bóng tượng trong gương vậy.
Hỏi: Sự thấy của phàm phu có năng thấy sở thấy, nên tâm và cảnh rõ ràng, vậy thì so với sự thấy của bậc Thánh làm sao phân biệt?
Đáp: Sự thấy của bậc Thánh Có và Không đồng thời chiếu soi, trong ngoài chẳng trụ, như tiếng dội trong hang, bóng hiện trong gương mà chẳng khởi tâm tác ý, sáng tỏ nhiệm mầu, tịch mà thường chiếu, nên nói là thường ở trong chánh niệm, cũng gọi là chánh tri. Kỳ thật, chẳng phải hữu niệm hữu tri, cũng chẳng phải vô niệm vô tri. Nếu chỉ vô niệm thì tịch mà mất sự chiếu soi, nếu chỉ có chiếu soi thì chiếu mà mất sự thường tịch, cả hai đều chẳng chánh. Chánh là ở chỗ Tịch và Chiếu đi song song với nhau.
Trong Hoàn Nguyên Tập nói : “Tự tánh khởi chiếu, chiếu soi tất cả, liễu liễu tri mà vô sở tri, liễu liễu kiến mà vô năng kiến, trong ngoài sáng tỏ,cùng khắp pháp giới, cũng gọi là vô chướng ngại, nhãn của Phật Tỳ Lô Giá Na, tràn khắp mười phương chiếu soi tất cả quốc độ Phật” tức là nghĩa này vậy.
Lại nói: Tâm hay làm Phật, hay làm chúng sinh, hay làm thiên đàng, hay làm địa ngục, hễ tâm có sai biệt thì muôn ngàn cảnh giới sinh khởi, hễ tâm bình đẳng thì pháp giới trống rỗng yên tịnh. Tâm phàm thì tam độc nổi lên, tâm thánh thì lục thông tự tại, tâm không thì nhất đạo trong sạnh, tâm hữu thì muôn cảnh tung hoành, như tiếng vang trong hang, lời hùng dội tiếng mạnh, như gương soi tướng, hình lõm hiện bóng co, thế thì biết vạn hạnh do tâm, tất cả tại ta. Bên trong hư thì bên ngoài chẳng thật, bên ngoài tế thì bên trong chẳng thô, thiện nhân tất gặp thiện duyên, ác hạnh khó tránh ác cảnh, sự vui của thiên đàng, sự khổ của địa ngục đều là tự tâm làm ra, chẳng phải người khác lãnh thọ, chẳng do trời sinh, chẳng do đất mọc, chỉ tại nhất niệm ban đầu của mình, nên có sự thăng trầm như thế.
Muốn được bên ngoài an hòa thì bên trong cần phải bình tĩnh, tâm không thì cảnh tịch, niệm khởi thì pháp sinh, nước đục thì làn sóng đen tối, nước trong thì bóng trăng sáng tỏ. Sự cần thiết của người tu hành đều chẳng ra ngoài những việc kể trên, gọi là cửa ải của chúng diệu, cũng là quê nhà của vạn linh, căn bản của thâm trầm và nguồn gốc của họa phước. Chỉ cần tự tâm luôn luôn được chánh niệm, đâu thể nghi ngờ cảnh giới bên ngoài ! Cho nên, hễ lìa được tội hạnh, phước hạnh, bất động hạnh của chúng sinh, thì chẳng có quả báo khổ vui của tam giới, hễ lìa được kiến văn giác tri của chúng sinh thì đâu có cảnh giới của ngũ uẩn, lục căn, lục trần và lục thức! Nên biết, mê ngộ do thức, nhiễm tịnh do tâm, ấy cũng là mục tiêu của tiền triết hậu học, chỉ thị của muôn ngàn Kinh Luận vậy.
Trong kinh Lăng Già có bài kệ rằng: “Tâm niệm như nắm đất, làm ra như chén bát (chén bát dụ cho chúng sinh, nắm đất dụ cho tự tâm), mỗi thứ dụ khác nhau, tất cả do tâm tạo”. Nếu nhất niệm chẳng sinh thì các duyên tự dứt, nên nói: “Nhất niệm tâm chẳng sinh thì các duyên tự dứt, nên nói: “Nhất niệm tâm chẳng sinh, vạn pháp không sai”. Hiện nay, hoặc tham sinh sợ chết; hoặc lo sống lo già; hoặc bỏ vọng bỏ thân, tùy theo tư tưởng mà tạo tác, nghiệp quả xoay chuyển mãi không dừng. Nếu liễu đạt sinh tử vô sinh, vọng tức vô vọng, một niệm tâm tịch, vạn lự (tất cả tâm và pháp) đều tiêu. Vậy thì biết hễ tâm ngộ là xong, chẳng còn pháp nào hơn nữa.
Nguồn: TT. Thích Đồng Thường gửi (http://old.thuvienhoasen.org)
Read more »
LỜI DẠY của ĐỨC Drubwang Konchok Norbu Rinpoche
VỀ VIỆC ĂN THỊT
Konchok Tenzin Drolma dịch sang Anh ngữ
Shen Shian hiệu đính văn phạm và phân đoạn. Liên Hoa Việt dịch
Ngày 8 tháng 12 năm 2003 tại Chùa Than Hsiang, Peang, Malaysia trong Khóa Nhập thất Trì tụng 100 Triệu Thần chú Sáu-Âm
1. Là Phật tử, chúng ta thực hành để làm lợi lạc cho bản thân và những người khác. Vì thế, chúng ta thực hành trì tụng thần chú Sáu-Âm (Om Mani Padme Hung). Tuy nhiên, khi chúng ta ăn thịt – thịt gà, thịt heo, cá hay trứng trong đời sống hàng ngày của ta, chúng ta đang tạo vô số nghiệp xấu.
2. Nếu một mặt, chúng ta trì tụng thần chú và mặt khác, chúng ta ăn thịt chúng sinh, thì như thế lời nói và hành động của chúng ta không đi đôi với nhau. Chúng ta không thực hành như ta đã thuyết giảng. Điều này có thể được coi là lòng từ ái và bi mẫn đối với chúng sinh? Đây có phải là làm điều tốt và tránh làm điều xấu? Chúng ta quy y Phật là bởi Giáo Pháp của Ngài có thể làm lợi lạc tất cả chúng sinh. Là Phật tử, chúng ta nên thấu suốt cốt tủy của trí tuệ và giáo lý của Đức Phật, đó là làm điều tốt và tránh không phạm vào những điều ác. Tránh làm điều ác có nghĩa là ta phải tuân giữ những giới luật. Vì thế chúng ta không nên ăn thịt.
3. Khi chúng ta bệnh, già hay gần chết, chúng ta đi bác sĩ – ta thực hành và làm mọi điều có thể và kéo dài thọ mạng của ta. Tuy nhiên, khi ta ăn thịt, ta đang giết chết những chúng sinh đang còn khỏe mạnh. Lòng bi mẫn và từ ái của ta vĩ đại ra sao nếu ta đối xử với chúng sinh theo cách thức như thế? Ta nên tránh sát sinh bởi điều đó phát sinh vô số nghiệp xấu. Thay vào đó, ta nên phát triển lòng từ ái và bi mẫn đối với tất cả chúng sinh.
4. Trong vô số lần tái sinh, tất cả chúng sinh đã từng là cha mẹ của ta. Khi ta tái sinh trong loài người, ta có những cha mẹ trong nhân loại; khi ta tái sinh trong loài thú, ta có những cha mẹ súc sinh và v.v.. Luân hồi sinh tử là như thế. Chúng ta cần phát triển một ý thức về lòng biết ơn đối với cha mẹ trong đời này và những cha mẹ của ta trong những đời quá khứ. Vì thế, chúng ta nên là những người ăn chay và tránh dùng thịt. Theo cách thức đó, chúng ta làm điều tốt lành và mang lại ý nghĩa cho việc thực hành của ta. Nhờ làm như thế, việc thực hành thần chú Sáu-Âm của ta sẽ có thể làm lợi ích cho bản thân ta và những người khác, và cũng trợ giúp cho việc phát triển Giáo Pháp.
5. Một số người nói rằng bác sĩ khuyên họ đừng ăn chay, bởi họ sẽ bị suy sinh dưỡng. (Sự thật là thực đơn chay quân bình thì tốt hơn một thực đơn không-chay nhiều.) Đây là một dấu hiệu cho thấy sự quyết định của những người này không đủ mạnh mẽ. Bởi nếu họ có quyết định mạnh mẽ thì họ sẽ tránh làm những ác hạnh bằng mọi giá và trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
6. Vì thế trong đời sống hàng ngày của ta, ta nên tránh phạm vào ác hạnh ăn thịt. Trên nền tảng này, những công đức phát sinh từ việc quy y và thực hành thần chú Sáu-Âm của ta sẽkhông thể tưởng tượng nổi. Chúng ta nên nỗ lực thay đổi cách sống để thành người ăn chay. Chắc chắn là ta sẽ gặp những khó khăn khi trở thành những người ăn trường chay. Tuy nhiên, khi những chướng ngại như thế xuất hiện, ta nên nhớ tưởng mỗi một chúng sinh vào một lúc nào đó đã từng là cha mẹ của ta ra sao. Khi nhớ tới điều đó, ta sẽ không ăn thịt giống như ta không ăn thịt cha mẹ ta trong đời này.
Nguyên tác: “Teachings by His Eminence Drubwang Konchok Norbu Rinpoche about Meat-Eating”
http://myhealinghands.com.sg/thedharma/teachingsbyhiseminencedrubwangkonchok.htm
Konchok Tenzin Drolma dịch sang Anh ngữ, Shen Shian hiệu đính văn phạm và phân đoạn.
Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa
Teachings by His Eminence Drubwang Konchok Norbu Rinpoche about Meat-Eating
on 8 Dec 2003 at Than Hsiang Temple, Penang, Malaysia
during 100 Million Six-Syllable Mantra Recitation Retreat
1. As Buddhists, we practiced so as to benefit oneself and others. Hence, we do the six-syllable (Om Mani Pad Me Hung) mantra practice. However, when we eat meat - be it chicken, pork, fish or eggs in our daily lives, we are creating immense negative karma.
2. If on the one hand, we chant the mantra and on the other hand, we eat the meat of another sentient being, then our words and actions do not tally with one another. We are not practicing as we preached. Can this be considered as loving-kindness and compassion towards sentient beings? Is this doing good and abstaining from evil? We take refuge in the Buddha because His teachings could benefit all sentient beings. As Buddhists, we should understand the essence of the Buddha's wisdom and teachings, which is to do good and abstain from committing evil deeds. Abstaining from evil means that we have to keep our precepts. Hence we should not take meat.
3. When we are sick, old or near death, we would go to a doctor - we would practise and do anything possible and extend our life span. However, when we take meat, we are killing sentient beings that are healthy. How great is our compassion and loving-kindness if we treat sentient beings in such a manner? We should abstain from killing because it generates immense negative karma. Instead, we should develop loving-kindness and compassion towards all sentient beings.
4. In countless rebirths, all sentient beings have been our parents. When we took rebirth in the human realm, we had human parents; when we took rebirth in the animal realm, we had animal parents and so forth. Samsara is such. We need to generate a sense of gratitude towards our parents in this lifetime and those of our past lives. Hence, we should be vegetarians and abstain from taking meat. In such a way, we would do good and give meaning to our practice. By doing so, our practice of the six-syllable mantra would be able to benefit ourselves and others, and also aid in the flourishing of the Dharma.
5. There are some people who say that their doctor has advised them against becoming vegetarians, as they would suffer from malnutrition. (The truth is a balanced vegetarian diet is much better than a non-vegetarian diet.) This is a sign that the determination of these people is not strong enough. For if one has strong determination, one would avoid doing evil deeds at all cost and under any circumstances.
6. Hence in our daily lives, we should stop committing the negative deed of eating meat. On this basis, the merits generated from our refuge and practice of the six-syllable mantra would be inconceivable. We should try to change our lifestyle towards vegetarianism. We would certainly face difficulties in becoming full vegetarians. However, when such obstacles arise, we should remember how every sentient being had at one point or another been our parents. When we remember this, then we would not take meat just as we would not eat the meat of our parents of this lifetime.
-Translated by Konchok Tenzin Drolma | Grammatically corrected and paragraphed by Shen Shian, with notes in parentheses
Read more »|
Naama-Ruupa
(sắc danh)
|
5 Pañca-skandha (ngũ uẩn, zh. wǔyùn 五蘊)
|
6 Dhaatu
(6 phân tử)
|
12 Aayatana
(căn trần)
|
18 Dhaatu
(18 giới thức)
|
|
Ruupa
(sắc, form)
|
1. Aggregate of form (zh.色; sa., pi. rūpa), Sắc uẩn
|
1. earth (thổ, (pa.thavi)
2. water (Thủy,aapo) 3. fire (hỏa,tejo) 4. air (khí,vaayo) 5. space (không gian, akaasa) |
1. eye (mắt,cakkhu)
2. ear (tai,sota) 3. nose (mũi,ghaa.na) 4. tongue (lưỡi,jivhaa) 5. body (thân,kaaya) 7. the visible (thấy, ruupa)
8. sound (nghe,sadda) 9. smell (ngữi,gandha) 10. taste (nếm,rasa) 11. touch (sờ,pho.t.thabba) 12. some Pháp,dhamma |
1. mắt (eye, cakkhu)
2. tai (ear, sota) 3. mũi (nose, ghaa.na) 4. lưỡi (tongue, jivhaa) 5. thân (body, kaaya) 7. thấy (visible, ruupa)
8. nghe (sound, sadda) 9. ngửi (smell, gandha) 10. nếm (taste, rasa) 11. sờ (touch,pho.t.thabba) 12. pháp (some, dhamma |
|
Naama
(danh, name)
|
5. Aggregate of consciousness
(zh. 識, sa. vijñāna, pi. viññāṇa), Thức uẩn along with
2. aggregate of feeling (vedanaa-kkhandha) Thọ uẩn
3. aggregate of perception (zh. 想, sa. saṃjñā, pi. saññā), Tưởng uẩn 4. aggregate of disposition (zh. 行, sa. saṃskāra, pi. saṅkhāra), Hành uẩn |
6.consciousness (viññāṇa), Tâm thức
|
6. mind (tâm trí, mano)
12. some Pháp,dhamma
|
6. thức (mind, mano)
12. pháp (some, dhamma
13. thức thấy (visual consciousness, cakkhu-viññāṇa) 14. thức nghe (auditory consciousness, sota-viññāṇa) 15. thức ngửi (olfactory consciousness, ghaana-viññāṇa) 16. thức nếm (gustatory consciousness, jivhaa-viññāṇa) 17. thức xúc (tactile consciousness, kaaya-viññāṇa) 18. tâm thức (mental consciousness, mano-viññāṇa) |
Chúng sinh, đặc biệt nhân sinh có cùng cấu tạo lượng tử, tế bào, tính linh giống như vật chất, thiên hà trong vũ trụ. Tất cả được cấu tạo rất tinh vi từ căn bản của Vũ Trụ Quan với nước (không khí,) thảo mộc, 18 kiến trúc giới trong bộ não của nhân loại, tâm thức nhân tạo trong computer và những ‘tác động lượng tử từ xa’ luôn luôn tương ứng và tương đồng như tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ. Đặc điểm của liên kết lượng tử (quantum entanglement) là chúng được kết nối bằng một phương thức kỳ lạ mà Albert Einstein gọi là “Spooky action at a distance (tác động ma quái từ xa.)”
Sentient beings, specially human beings have a same origin not only as the single cell organisms but also have the same origin as particles, atoms, planets, stars, and the galaxies. There is a very well defined architecture that governs this universal creation process and together formed the basis of a Universe’s Cognitive Process existing in particles (spooky actions as Albert Einsteincalled it,) water, plants, Eighteen Sphere structures in human brain, artificial consciousness in computer, which is created by Consciousness.
Trong Phá Mê Khai Ngộ, Chương 26. Lục Căn, Lục Trần, Lục Thức, Lê Sỹ Minh Tùng viết: “Tâm [phan duyên, tâm vô minh, THL] thì dựa theo Lục căn để nhận biết Lục trần và phân biệt thành Lục thức mà Ngũ uẩn thì biến chuyển rất nhanh thành thử Tâm của con người cũng phải chạy theo [ví như Tâm viên , ý mã.] Ý niệm đua nhau sinh khởi trong tâm thức của con người. Ý niệm sau thay thế ý niệm trước vì thế mà vọng tưởng không bao giờ dừng lại. Vọng tưởng còn thì chân tâm biến mất.” Ngược lại, khi không còn vọng tưởng, kỳ tâm xuất hiện. Đó là lý do, Đức Phật dạy chúng sinh phải giữ tâm của mình cho được thanh tịnh bằng cách loại bỏ tất cả mọi phiền não. Bởi vì vọng tưởng và phiền não biến tâm của chúng ta thành mê muội, mà vô minh là cội nguồn của tham, sân, si ‘kéo’ (pull) theo đau khổ trầm luân trong luân hồi.
Consciousness is also expressed in the basis of Hundred Dharmas that has the characteristics of existing in the form of energy, working within spaces, and existing in emptiness. The Hundred Dharmas or the Universe’s creation process started with a Mind where the Mind are of eight kinds – the Eye, Ear, Nose, Tongue, Body, Mind, Manas, Alaya Consciousness. However, the main creators are the first six Consciousness and the last two are auxiliary.
Tâm cũng được diễn tả trong căn bản của 100 Pháp (Hundred Dharmas) với sắc tướng hiện tượng trong dạng năng lượng, bàng bạt trong không gian, hiện hữu trong chân như. ‘Thiên pháp’ (Hundred Dharmas) hay chu trình cấu tạo của vũ trụ bắt đầu từ tâm thức. Tâm thức gồm có mắt, tai, mũi, lưỡi, trí, mạc-na thức, và a lại da thức. Tuy nhiên, những cái cấu tạo chính là 6 cái căn đứng trước nhất còn 2 cái thức sau cùng chỉ là phụ thuộc.
Tất cả do tâm tạo! (Ý Phật nói?) “With our thoughts we make the world. The mind is everything. What you think, you become.” Buddha (?)
Tâm tạo ra tất cả trong vũ trụ chỉ đúng một nữa. Có thể, 18 căn trần thức lừa bịp chúng ta bởi cái đo lường không chính xác của chính nó về thế giới hiện tượng và thực tại của nó có thể là ảo, không thực đúng như vậy. Cho nên, thực tại là không thực tại mà là thực tại ở trong tâm phan. Thực tại có thể chỉ đơn thuần là cấu trúc của ma trận (matrix) của tâm thức. Thấy vậy mà không phải như vậy! Điều có thể xảy ra đó là thực tại của chúng ta thực sự là không gian 2 chiều (X và Y,) không gian 3 chiều (Z,) và 4 chiều (thời gian) chỉ đơn thuần là ảo, trống không, như đã được giải thích rất quái gỡ trong cơ khí lượng tử (quantum mechanics.)
The thought makes the entire universe is only half truth. Perhaps, our human six conscious senses are deceiving us by their inaccurate measurements of our world (Samsara,) existence maybe just an illusion, and reality isn't real. Thus, all of reality exists only in our minds. Everything we know maybe merely a constructed matrix of our thoughts. Thing might not appear as we see and think as it is. One possible implication is that the reality is actually two-dimensional (X and Y,) the three-dimensional space (Z,) and the fourth-dimensional (time) are merely a holography, which would explain some of the wackiness of quantum mechanics.
Đáo bỉ ngạn, trở lại bờ bên kia, có nghĩa là bỏ sáng (quang) trở về tối (dark) theo ngôn ngữ quái đản (spooky language) của con người. Mà bờ tối đó vì không hấp thụ hay phản chiếu quang (ánh sáng) nên có thể không có luôn âm (tiếng động.) Nếu chúng ta được cấu tạo và tiến hoá (evolution) trong môi trường đen tối đó thì chúng ta sẽ không cần ngũ uẩn và lục căn. Chúng ta sẽ ‘không mắt, không tai, không mũi, không lưỡi, không thân và không thức’ vì tất cả nhửng giác quan này vô dụng bên bờ bên kia. Chúng ta sẽ không là con người tầm thường mà có thể là ‘thượng đế?’ Điều này cho thấy Bát Nhã Tâm Kinh đã diễn tả chính xác cái ‘ngũ uẩn giai không,’ cái tánh Không tuyệt diệu bên bờ tối đó mà khoa học đến bây giờ vẫn còn chưa thông nổi ý này.
Back to another side, in this case means ‘go to bright side with light’ ‘back to’ the dark side without light with dark energy and dark matters. Since dark side neither emits light nor absorbs light and probably it produces no noise and if we are evolved in those environments perhaps we would not need these six sense organs. We might have no eyes, no ears, no nose, no tongue, no body, may be no mind as expressed beautifully in Buddhism Heart Sutra, which are the five aspects of human existence are empty and six sense organs are non-existence, all things are emptiness. If that the case then we might not call ourselves as a human being but ‘super-being?’
Tóm lại, cái quan niệm phổ thông từ trước đến nay của tâm tạo ra tất cả vô lượng vật trong vũ trụ chỉ thật sự đúng trong vũ trụ hiện tượng với vật chất hữu hình có thể thấy, nghe, ngữi, nếm, sờ và biết được bởi tập tục từ vô lượng kiếp đầy vô minh của 18 Pháp giới, đó chỉ là 5% của sắc tướng quáng quang âm trong vũ trụ, trong 5% đó đầy ắp ảo sắc tạo bởi ngũ uẩn qua phản chiếu quang tạng ảo ảnh và những tiếng động (âm) ồn ào không thật tại từ tâm phan duyên được đo lường bởi 18 căn trần thức giới của Phật Giáo. Nó không đại diện cho ‘bờ bên kia’ không có ngũ uẩn, khác với ‘ngũ uẩn hiện hữu nhưng chỉ là giai không’ kiến bởi ‘Quang Âm’ Bồ Tát ở ‘bến bên này.’ Bờ bên kia của chư Phật không có ngũ uẩn như bờ bên này để chiếu kiến giai không. Bờ bên kia đầy không, vơi sắc; bến bên này đầy sắc, vơi không. Có không, không có!
In short, the concept of ‘consciousness creating everything in the Universe’ is only true for an observable universe, which is only 5% observable matters, and full of non-emptiness that formed by five aggregates and consciously measurable by 18 Buddhism’s Spheres. It does not accountable for another ‘dark side,’ which is subconsciously full emptiness of five aggregates. The ultimate truth of ‘emptiness of emptiness’ should be resolved by the modified Heart Sutra (The Prajñāpāramitā Sutra) formula “asBodhisattva Avalokitesvara practiced the profound Prajnaparamita, Bodhisattva Avalokitesvara saw that the ‘universe’ is ‘emptiness of emptiness.’ That is non-dualism!
Cho nên phải “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm diệu viên giác Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến vũ trụ giai ‘không của không’.” Khi đó mới ‘như thị viên giác’ (thấy rốt ráo với không tánh, bất nhị, anh minh, sáng suốt tròn đầy) thấu đạt được tâm tướng là tâm không; không tâm là tướng tâm!
Source: TVHS
Read more »