Niệm Phật Đường
Welcome
Login / Register

Tantric scriptures - Mật Giáo


  • Lịch Sử Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng

     

    Lịch Sử Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng
     Lê Sỹ Minh Tùng

    Sự phát triển của Phật giáo Tây Tạng có những nét đặc thù mà có lẽ không nước nào khác trên thế giới có được. 
              Vào năm 641 vua Đường Thái Tông của Trung Hoa gã công chúa Văn Thành cho vua Tây Tạng. Vị công chúa này là người thông minh, có học và là một Phật tử thuần thành. Vua Tây Tạng còn có một người vợ khác là công chúa Ba-lợi-khố-cơ của nước Ni-bạc-nhĩ cũng là người có học thức nên cả hai khuyên nhà vua cử người sang Ấn Độ và Trung Hoa để thỉnh các vị Tăng sĩ Phật giáo đến Tây Tạng truyền pháp và đồng thời cũng cử một phái đoàn gồm 18 người do đại thần Thon-mi-sandhota dẫn đầu sang Ấn Độ du học. Khi học xong, những người này về nước bèn chế ra chữ viết riêng cho Tây Tạng dựa theo chữ viết tiếng Phạn để có thể phiên dịch kinh điển Phật giáo sang Tạng ngữ. Sự hình thành một loại chữ viết và việc phiên dịch kinh điển Phật giáo sang Tạng ngữ là một công trình hết sức phức tạp, nhưng chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn làm mọi người hết sức kinh ngạc. 
              Nửa thế kỷ sau đó, năm 710 vua Đường Duệ Tông lại gả công chúa Kim Thành cho vua Tây Tạng đời thứ 35 là Khí-lệ-xúc-tán. Vị công chúa này lại mang đến Tây Tạng rất nhiều kinh thư và sách vở của Trung Hoa.

             

    Mật Tông Tây Tạng 2
    Các ni sư hành lễ theo pháp tu Mật Tông Tây Tạng
    dòng truyền thừa Drukpa ở tịnh thất Tây Thiên, Tam Đảo, Vĩnh Phú.

    Năm 787, ngôi chùa đầu tiên của Tây Tạng có tên là chùa Samye (Tang duyên) được xây dựng và hoàn thành về phía đông nam thủ đô L’hasa và đây là nơi mà vị cao tăng Ấn Độ Santaraksita (Tịch Hộ) đến hoằng hóa trong suốt 13 năm thể theo lời mời của vua Trisong Detsen. Sau đó có nhiều ngôi chùa khác được xây dựng khắp nơi và nhiều vị cao tăng Ấn Độ được mời sang Tây Tạng để hoằng pháp. Thời gian này được xem là thời kỳ phát triển mạnh nhất của Phật giáo Tây Tạng. Với sự hỗ trợ của vua Khri-ral-pa-can, Phật giáo đã đẩy lui những ảnh hưởng của tôn giáo thần chú, bùa ngãi địa phương Bon Pa. 
              Mặc dù Phật giáo phát triển mạnh, nhưng người dân Tây Tạng vẫn ưa chuộng huyền thuật hay phép màu do ảnh hưởng lâu đời củađạo Bon Pa để lại. Ảnh hưởng này ngấm ngầm chi phối dân Tây Tạng trong việc tiếp nhận các luồng tư tưởng Phật giáo khác nhau. Theo chiều dài của lịch sử, Phật giáo Tây Tạng chịu ảnh hưởng của bốn luồng tư tưởng; đó là:
              1) Luồng tư tưởng này đến từ phương Nam và là sự tổng hợp các tư tưởng đại thừa do một số học giả bậc nhất của đại học Ma-kiệt-đà truyền đến. Họ đã sắp xếp nội dung bộ Bát Nhã Ba-la-mật thành 25,000 bài kệ có đánh số rõ ràng và đây được xem như là bước đầu tiên trong việc thiền quán về bộ kinh này. Vì đã được chú giải trước ở Ấn Độ nên khi truyền đến Tây Tạng thì bộ Hiện Quán Trang Nghiêm Luận đã trở thành nền tảng căn bản để đào luyện những tư tưởng cao hơn mà không lệ thuộc hệ thống Mật tông.
              2) Luồng tư tưởng thứ hai đến từ phía Đông là của phái Nhất thiết hữu bộ. Tuy được sự thỉnh mời của vua Tây Tạng, nhưng bộ phái này không bao lâu đã trở thành mờ nhạt vì người dân Tây Tạng không mấy tích cực về những giáo lý mà chỉ thích phép mầu, thần thông.
              3) Luồng tư tưởng thứ ba cũng đến từ phía Đông do các thiền sư Trung Hoa truyền sang. Các vị này đã có rất nhiều nỗ lựcđể chuyển lối sống của người dân Tây Tạng sang theo lối đại thừa, nhưng sau đó vì ảnh hưởng của mật tông nên họ đã bị thất bại hoàn toàn và bắt buộc phải rời khỏi Tây Tạng. Khoảng năm 775 có cuộc đấu tranh dữ dội giữa những đồ đệ của các bậc thầy Trung Hoa (đại thừa) và những đồ đệ của bậc thầy mật tông. Các tu sĩ Trung Hoa bị dồn ép ác liệt và kết quả họ bị đuổi ra khỏi xứ này. Đây có lẽ đánh dấu cho sự cáo chung của Phật giáo đại thừa bắt đầu truyền vào Tây Tạng vào thời công chúa Văn Thành.
              4) Luồng tư tưởng thứ tư là do Đại sư Liên Hoa Sanh (Padma Sambhava) được vua Tây Tạng Ngật Lật Song Đề Tán (755-797) thỉnh từ xứ Udyàna, miền bắc Ấn Độ. Khi nhận lời mời đến Tây Tạng, Đại sư còn đem theo 25 vị đệ tử rất nổi tiếng có tài thần thông biến hóa, hàng phục ma chướng tà đạo. Ấn tượng mà Ngài Liên Hoa Sanh tạo ra với Tây Tạng phần lớn là nhờ vào việc thực hiện những phép mầu, có tài chinh phục ma quỷ và khả năng thần thông biến hóa rất gần gũi với đạo Bon Pa nên được dân Tây Tạng tiếp nhận rất cuồng nhiệt. Những huyền thoại để lại về Ngài có thể là đã vượt qua những sự kiện lịch sử vì dân Tây Tạng xem Ngài là Đức Phật Thích Ca tái thế.

              

    Mật Tông Tây Tạng 3
    Đại sĩ Liên Hoa Sanh – Sơ tổ Mật tông Tây tạng

    Sự dung hợp và tiếp thu các luồng tưtưởng theo khuynh hướng đặc thù của người dân Tây Tạng đã biến Phật giáo Tây Tạng đậm màu sắc của những huyền thuật và phép mầu. Ngài Liên Hoa Sanh là người sáng lập ra tông phái Ninh Mã (Nyingma) được gọi là Cổ phái và vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay. Ngài cũng là tác giả của cuốn sách “Tử Thư”, xây dựng tu viện Tang Duyên (Samye) và được coi là Tổ sư của Phật giáo Tây Tạng. Vì thế Phật giáo Tây Tạng không còn ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa nữa mà được xem như là Phật giáo Mật tông đậm màu sắc thần linh, lễ nghi, bùa chú, ấn quyết, xuất quỷ nhập thần rất phức tạp.

     

    Mật Tông Tây Tạng 4
    Tây Tạng - vương quốc huyền bí của Phật giáo

    Tây Tạng - vương quốc huyền bí của Phật giáo

              Tuy nhiên, năm 836 khi vua Tây Tạng đời thứ 39 là Lang-dar-ma lên ngôi thì ông cố gắng tích cực để tiêu diệt Phật giáo vì ông là một tín đồ thuần thành của đạo Bon Pa. Sau khi đàn áp Phật giáo được sáu năm thì ông bị một Lạt Ma dùng cung bắn chết vào năm 842. Tuy đã giết chết nhà vua, nhưng tình hình Tây Tạng càng ngày càng đi vào chỗ tối tăm vì các nhóm thế lực tranh dành quyền lực khiến cho nước Tây Tạng bị chia năm xẻ bảy làm cho đời sống dân Tây Tạng cực kỳ khổ sở. Triều đình thẳng tay đàn áp Phật giáo và buộc các tăng sĩ phải đi làm thợ săn, đồ tể… và họ đốt phá kinh điển cũng như chùa chiền. Để chống lại đạo Bon Pa, Phật giáo Tây Tạng tìm cách tái lập quan hệ với Ần Độ để thỉnh mời các tăng sĩ sang truyền pháp.
             

    Mật Tông Tây Tạng 5
    Người dân Tây Tạng rất thân thiện và nhiệt tình.

    Trong khi ở Tây Tạng vua Lang-dar-ma cố tình tiêu diệt Phật giáo thì vào thời điểm đó tức là vào năm 845 ở Trung Hoa cũng xảy ra tình trạng đàn áp và hủy diệt Phật giáo do vua Đường Vũ Tông đề xướng. Nhà vua đã ra lệnh hủy hoại trên 1,600 ngôi chùa lớn và bức bách trên 260,000 tăng ni phải hoàn tục. Vua còn ra lệnh đốt hết tất cả kinh điển Phật giáo, đập phá tượng Phật, tịch thu ruộng đất nhà chùa và thu góp các chuông đồng để đúc thành tiền. Cũng giống như ở Tây Tạng, sau pháp nạn thì nhà Đường ngày càng lâm vào cảnh suy vi, u ám và lọan lạc cho đến năm 907 nhà Đường bị Chu Toàn Trung diệt mất mà lập ra nhà Hậu Lương.

              Một trong số những người đã có công chấn hưng Phật giáo Tây Tạng là Rin-chen Bzangpo (985-1055). Ông đã sang Ấn Độ và được thọ giáo với 70 vị danh tăng cho nên khi về nước ông còn mời rất nhiều vị đến Tây Tạng giúp ông trong việc phục hưng Phật giáo Tây Tạng. Các vị danh tăng Ấn Độ khi vào Tây Tạng có mang theo rất nhiều kinh điển mật tông như :  Nhất Thiết Như Lai Kim Cang Tam Nghiệp Tối Thượng Bí Mật Đại Giáo Vương… được dịch sang Tạng Ngữ. Những yếu tố thiên về Mật tông trong thời điểm này khiến cho hầu hết các tông phái Phật giáo ở Tây Tạng đều mang đậm sắc thái của Mật tông.

              Những sự đàn áp của triều đình không bóp chết được niềm tin mãnh liệt đã được nẫy nở trong lòng người dân Tây Tạng vì thế cho dù Phật giáo Tây Tạng chịu đựng sự đàn áp sắp đến chỗ diệt vong đến cuối thế kỷ thứ 10 và mãi đến thế kỷ thứ 11 thì mới được khôi phục. Năm 1041 có Đại sư Atisha (982-1054) lúc bấy giờ đang trụ trì tại tu viện Vrikamalisa ở miền bắc Ấn Độ nhận lời mời của vua Yeshe-O để đến Tây Tạng. Ông lấy triết học Tánh không và Duy thức làm tư tưởng cho Phật giáo Tây Tạng và đã sắp xếp toàn bộ hệ thống kinh sách làm ảnh hưởng rất lớn đến các hệ tư tưởng Mật tông Tây Tạng. Ông nghĩ rằng một trong những khó khăn của Phật giáo là có quá nhiều pháp môn để tu giải thoát nên ông giới thiệu tác phẩm “Minh Đăng Thánh Đạo” để giúp chúng sinh thực hành dựa theo ba trình độ phát triển tâm linh. Mức độ thấp nhất là những người muốn tìm cầu hạnh phúc trong thế gian này và chỉ nghĩ đến lợi ích của riêng mình. Mức độ thứ hai là những người cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình, nhưng khôn ngoan hơn là chọn một cuộc sống đạo đức và tìm cầu trong sạch. Mức độ cao nhất là những người trong tâm đã hoàn toàn thanh tịnh giải thoát. Nhưng tác phẩm này chỉ được phát huy tối đa vào khoảng 300 năm sau với sự xuất hiện của ngài Tông-khách-ba (Tsong Khapa). 
              Đại sư Tông-khách-ba (1357-1419) sinh tại Amdo thuộc vùng đông bắc Tây Tạng, xuất gia lúc còn nhỏ và tham học với nhiều vị đại sư khác nhau. Ông sáng lập ra tông phái Hoàng mạo phái (phái mũ vàng) (Gelugpa), một tông phái quan trọng nhất của Tây Tạng hiện nay. Ông chủ trương xét lại toàn bộ kinh điển và tổng kết thành hai tác phẩm chính:  Bồ-đề đạo thứ đệ (Lamrin Chenmo) tiêu biểu cho đường lối tu tập Hiển giáo và Chân ngôn đạo thứ đệ (Ngagrim Chenmo) tiêu biểu cho đường lối Mật Giáo. Trước khi mất, Ông di chúc lại cho hai đệ tử là Dalai Blama và Panchen Blama tức là Đạt-Lai Lạt-Ma (từ bi) và Ban thiền Lạt-Ma (trítuệ). Từ bi và trí tuệ là hai biểu tượng của Đức Phật. 
               Sự hình thành của các tông phái Phật giáo Tây Tạng diễn ra khoảng 400 năm do chính người Tây Tạng thành lập cho thích hợp với tinh thần và xã hội của họ mà yếu tố huyền thuật, phép mầu hay thần thông hầu hết đều mang nặng màu sắc của Mật tông đã từng gắn bó lâu dài với người dân bản xứ. Để chống lại sự đàn áp của nhóm Bon Pa, Phật giáo Tây tạng đã được tổ chức thành những môn phái, giáo hội, nhưng chính sự tổ chức nầy đã đưa Phật giáo vào con đường suy vong.

    Mật Tông Tây Tạng 6
    Thai tạng giới Mạn đà la

     

              Vì có nhiều giáo hội, tông phái dần dần các tu sĩ đã trở nên lười biếng, không giữ gìn giới luật và coi việc tu hành như một nghề nghiệp hướng dẫn tinh thần cho quần chúng hơn là tu thân cầu giải thoát. Tệ hại hơn nữa, các nghi thức hành lễ để suy gẫm lời Phật dạy đã biến thành cúng vái, xin xỏ, lên đồng, nhập cốt, giải đáp là số tử vi, bùa chú thư phù… Các tinh hoa Phật pháp được cất giữ không mang ra giảng dạy mà chỉ đề cao hình thức bề ngoài. Các tu sĩ không chịu tu học mà chỉ đặt trọng tâm vào việc sắc tướng như kêu gọi Phật tử xây chùa, đúc tượng để được phước. Truyền bá những chuyện mê tín hoang đường để lôi kéo tín đồ thay vì giúp họ tu hành để được giải thoát giác ngộ. Họ còn cho phép các tu sĩ được lấy vợ và được thừa kế tức là nếu cha là Lạt Ma thì con đương nhiên cũng thành Lạt Ma khỏi cần tu học. Mãi cho đến vị Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 5 Lobsang Gyatso (La bốc tạng Gia mục thố) thì việc chấn hưng mới được hoàn mãn. Tục lệ thừa kế bị loại bỏ và nhiều kỳ thi về Phật học được tổ chức để gạt bỏ những người mượn áo tu hành làm điều bất chính. Những kinh điển từ trước vẫn được cất kỹ thì nay được mang ra truyền bá sâu rộng để khuyến khích phong trào tu học trong nước. Mọi gia đình được khuyến khích gởi con cái vào các tu viện để trở thành các vị Lạt Ma. Sau đó họ có thể lập gia đình và sống như một người thường. Chỉ khi nào họ phát nguyện xuất gia thì mới được gọi là tu sĩ (Trappa). 

     

    Mật Tông Tây Tạng 7
    Kim cương giới Mạn đà la.

    Ở Tây Tạng có rất nhiều tông phái, nhưng đại để có những tông phái mà những vị tổ sư đã làm sáng danh Phật giáo Tây Tạng cho đến ngày nay là: :
              1) Phái Kadampa là do đệ tử của Đại sư Atisha là Ngài Gyalwa Dromtonpa thành lập vào khoảng năm 1050. Tông phái này tiêu biểu cho truyền thống trung tâm của Phật giáo Tây Tạng.
              2) Phái Kagyu do Ngài Marpa Lotsawa sáng lập. Tông phái này dần dần mang đậm bản sắc Tây Tạng nhất so với các tông phái khác và không nắm giữ hoặc chi phối các quyền lực xã hội như các phái Gelugpa… Hiện nay, phái này vẫn còn là một môn phái bảo thủmạnh nhất và họ xem việc lập gia đình không cản trở đến sự tu hành. Trong phái này có sự xuất hiện của Milarepa (1040-1123) là bậc thánh giả và cũng là nhà thơ vĩ đại của Tây Tạng. Ông nổi tiếng với tác phẩm Thập vạn ca (100,000 bài ca). Trước khi theo Phật giáo, ông tu theo ma thuật để tìm giết hại những kẻ thù của gia đình bằng cách làm cho nhà sập đè lên họ và làm mưa đá rơi trên ruộng của họ. Sau đó nhận biết tội lỗi của mình nên đến tìm gặp Đại sư Marpa để Ngài giúp ông trả hết những ác nghiệp đã tạo bằng cách gánh chịu những cực hình trong suốt 6 năm. Vào năm 44 tuổi thì ông ngộ đạo rồi sống 39 năm còn lại như một nhà ẩn tu trên Hy-mã-lạp sơn gần biên giới Nepal cho đến khi ông viên tịch vì uống sửa có pha thuốc độc của một người ganh ghét ông.
              Truyền thống tái sinh của các vị Karmapa thuộc phái Kagyu được khởi đầu từ thế kỷ thứ 12 nghĩa là sớm hơn so với các vị Đạt-La Lạt-Ma gần ba thế kỷ. Có thể nói họ là những người đầu tiên khởi xướng truyền thống tái sinh tại Tây Tạng. 
              3) Phái Shi-byed-pa trước tiên do Phan-dam-pa đề ra là tông phái duy nhất chú trọng đến Bát Nhã nên tông phái này chỉ dành cho thiểu số những người có trình độ cao. Họ dành trọn tâm trí cho việc thực hành thiền ở những nơi cách biệt và không quan tâm đến xã hội nhiều. Họ lấy bộ Trung Quán Luận làm nền tảng tu hành. Đây là sự điều chỉnh những điểm cốt yếu và mặt tâm linh của Phật giáo cho phù hợp với giáo lý mật tông.
              4) Phái Saskya có những nét gần gũi hơn với đời sống thế tục. Sau khi chế độ quân chủ sụp đổ, Tây Tạng không có chính quyền trung ương nên các tăng sĩ của phái này đã nắm lấy chính quyền và truyền ngôi vị lại cho con cháu. Hiện nay họ vẫn còn tồn tại nhưng đã từ lâu không còn nắm quyền cai trị đất nước.
              5) Phái Gelugpa là tông phái nổi tiếng nhất ở Tây Tạng được sáng lập bởi Ngài Tông-khách-ba (Tsong Khapa) (1357-1419) là nhà tư tưởng vĩ đại của Phật giáo Tây Tạng. Ngài là một nhà cải cách và đã tiếp nối công việc hoằng pháp của Đại sư Atisha tức là nghiêm về đạo đức, giới luật và giảm nhẹ ảnh hưởng của pháp thuật bằng cách nhấn mạnh vào khía cạnh tâm linh. Đây chính là phái mũ vàng đã nắm quyền cai trị Tây Tạng cho đến năm 1950 khi Trung Cộng xua quân đánh chiếm đất Tây Tạng. Sự thành công nhanh chóng của Ngài Tông-khách-ba (Tsong Khapa) là vì nhờ ông có rất đông đệ tử, nhờ vào việc thành lập các tự viện và nhờ vào 16 bộ sưu tập các tác phẩm Phật học. Trong số đó có hai tập rất nổi tiếng. Một là trình bày đầy đủ về sáu phép ba-la-mật của đại thừa và tập kia nói rõ những phương thức công phu theo Mật tông. Tập sách đầu có tên là “Từng bước đi lên giác ngộ” là dựa theo từ tập sách Minh Đăng Thánh Đạo của Ngài Atisha. Ngài là vị học giả luôn cố gắng tìm vị trí trung dung giữa những cực đoan, tránh sự thiên lệch và đưa lại sự hòa giải giữa hai phái mũ vàng và mũ đỏ.

     

    Mật Tông Tây Tạng 8
    Tượng Ngài Tông Khách Ba trong
    ngôi chùa
    nơi sinh trưởng của Ngài
    trong tu viện Kumbum,
    gần Xining, Qinghai (Amdo), China.

    Tượng Ngài Tông Khách Ba trong ngôi chùa nơi sinh trưởng của Ngài trong tu viện Kumbum, gần XiningQinghai (Amdo), China.
              Vào thế kỷ 15, phái Gelugpa đưa ra một “luận thuyết” cho rằng các vị Bồ-tát như Đức Quán Thế Âm, Di Lặc và chư Phật như Đức Phật A Di Đà chắc chắn đã có hóa hiện ra những hóa thân để làm các vị giáo chủ mà hóa độ chúng sinh. Những hóa thân tái sinh này được các vị cao tăng tìm kiếm và xác nhận rất cẩn thận dựa trên những quy luật rất phức tạp do hội đồng lễ nghi đề ra. Vai trò lãnh đạo của những vị hóa thân tái sinh này là nét đặc thù của Tây Tạng trong suốt gần 5 thế kỷ qua. Tất cả 14 vị Đạt-Lai Lạt-Ma đều xuất thân từ phái mũ vàng nhưng phái mũ đỏ vẫn được tôn trọng và vẫn chiếm số đông.



              Trong cuốn “Tây Tạng Huyền Bí” có diễn tả về cung điện Potala ở Tây Tạng trước khi quân Trung Cộng đánh chiếm đất nước này như sau:
             

    Mật Tông Tây Tạng 9
    Điện Istana Potala, Lhasa, Tây Tạng. Cung điện Potala – Wikipedia

    Tu thất của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma tọa lạc trên nóc điện Potala, vì theo phong tục bản xứ, không ai có quyền được ở chỗ cao hơn Ngài. Một cầu thang vĩ đại xây bằng đá rộng gần bằng một đường lộ đưa đến tư dinh của Ngài. Điện Potala là một tòa cung điện độc lập xây dựng trên một ngọn đồi. Đó là cơ quan đầu não để giải quyết tất cả mọi công việc chính trị và tôn giáo của xứ Tây Tạng. Đó là trung tâm của quốc gia, mục tiêu của tất cả tư tưởng, nguồn gốc của tất cả mọi hy vọng. Bên trong vòng thành của cung điện, trong những tòa nhà của Ngân Khố Quốc Gia, có dự trữ những khối vàng ròng, vô số những bao đựng đầy ngọc ngà châu báu và những bảo vật quý giá của thời đại cổ xưa nhất… Tiếp tục bước lên đến một điểm cao tột trên nóc điện, tại đây có những lăng tẩm của những vị Đạt-La Lạt-Ma của quá khứ, tức tiền thân của đức Đạt-La Lạt-Ma hiện tại.”
              Hãy nhìn lại lịch sử Phật giáo vào thời Đức Phật còn tại thế. Sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài trở về cung thành Ca tỳ la vệ thăm lại phụ vương và gia đình. Vua cha khẩn thiết yêu cầu Ngài ở lại cung thành vừa làm vua và vừa là vị Phật, nhưng Ngài chỉ chọn một con đường duy nhất là khất sĩ. Khất sĩ ở đây là phải chấp nhận từ bỏ tất cả, từ bỏ tiền tài danh lợi, vợ đẹp con xinh, uy quyền chức tước. Vì sao?  Bởi vì đối với phàm nhân thì những thứ đó là hạnh phúc, là niềm vui, là cứu cánh tột đỉnh của cuộc sống. Còn đối với bậc đại thánh thì những hạnh phúc này chỉ là giả tạm phù du, như sương, như khói, như đám mây có tan có hợp và là những sợi dây vô hình cột chặt con người vào vòng hệ lụy khổ đau. Có thế lực, uy quyền, danh vọng là có tranh dành, có thủ đoạn hại người lợi mình và dĩ nhiên tội nghiệp cũng vì thế mà tác tạo. Đây là miếng mồi thế tục, là trò chơi của thế gian. 
              Ví như sau một vài năm ở ngôi cao Tổng Thống Hoa Kỳ, thì vị nào tóc cũng bạc. Đủ thấy bình trị thiên hạ là phiền não, thủ đoạn, tranh giành, chém giết chớ đâu phải dạo chơi chốn hoa viên thanh tịnh an nhàn. Đức Phật xuất thân là một vương tử, giàu sang phú quý, nhưng khi xuất gia làm người tu sĩ thì Ngài trở thành người Khất sĩ (buông xả tận cùng). Vì vậy Ngài mới có vô thượng Bồ-đề và vô thượng Niết-bàn.
              Các vị Tổ sư khi thành lập mỗi một tông phái đều thể hiện những đặc tính siêu việt của mình trong những yếu tố góp phần tạo nên đời sống thêm phong phú cho Phật giáo Tây Tạng. Tuy các tông phái có sự khác biệt về việc tổ chức tự viện, về màu sắc y phục, về các vị thần bảo hộ hay phương pháp thiền định, nhưng họ luôn có sự tác động và vay mượn lẫn nhau. Sự nổi bật của các vị Đạt-Lai Lạt-Ma đã làm cho nhiều người lầm tưởng rằng các Ngài là những vị lãnh đạo của toàn thể nhân dân Tây Tạng. Nhưng trên thực tế, Tây Tạng có rất nhiều tông phái khác nhau và mỗi phái có một vị lãnh đạo tinh thần tối cao của riêng mình. Vì thế tuy Đức Đạt-Lai Lạt-Ma được xem là người lãnh đạo cao nhất của Tây Tạng về mọi mặt, nhưng mỗi một truyền thống tông phái đều có một vị đứng đầu để dẫn dắt họ.
              Đối với Phật giáo trên khắp thế giới hiện nay, một phần ba thuộc về Phật giáo Nam tông (Nguyên thủy tức Theravada), hai phần ba thuộc Phật giáo Đại thừa Bắc tông (Mahayana). Trong khi đó, Kim cang thừa Phật giáo (Vajrayana) chỉ đại diện cho 1/30 số người Phật giáo vì Mật tông giới hạn trong các nơi thưa dân như Tây tạng, Bhutan, Nepal và Mông cổ. Mặc dù Đức Lạt-Lai Lạt-Ma chỉ đại diện cho 1% tín đồ Phật giáo thế giới, nhưng với uy tín của Ngài, người Tây phương vẫn nhìn Ngài như người đại diện cho toàn thể Phật giáo.

    Mật Tông Tây Tạng 10
    Ban Thiền Lạt Ma 10
    Mật Tông Tây Tạng 11
    Đức Ban Thiền Lạt Ma, Mao Trạch Đông và Đức Đạt Lai Lạt Ma

              Khi Trung Cộng xua quân đánh chiếm nước Tây Tạng năm 1950 thì cả hai Ngài Ban Thiền và Đạt-Lai còn kẹt lại Tây Tạng. Tháng 4 năm 1959, sau chín năm bị giam lỏng ở Potala, Đức Đạt-Lai trốn thoát và tỵ nạn tại Dharamsala tức Little L’hassa gần biên giới Tây Tạng và Ấn Độ cho đến ngày nay. Trong khi Đức Đạt-Lai trốn được qua Ấn Độ, Ngài Ban Thiền thứ 10, Lhundrup Choekyl Gyaltsen, còn bị kẹt lại và đã viết bài kiến nghị dài bảy mươi nghìn chữ để tố cáo cho thế giới về cảnh ngộ khốn cùng của đồng bào Tây Tạng dưới sự thống trị của Trung Cộng. Ngài đã bị đảng Cộng Sản Trung Quốc và Mao Trạch Đông lăng mạ và kết án 14 năm trong tù hay cấm cố tại nhà. Tháng 12 năm 1964, Ngài bị đưa đến Bắc Kinh dưới tội danh “phản cách mạng” và bị đánh đập tàn nhẫn. Năm 1978, sau khi được trả tự do, Ngài du hành khắp Tây Tạng và tiếp tục phê bình chính sách cai trị bạo tàn của Trung Cộng. Chẳng bao lâu sau đó, Ngài bị bắt trở lại và ngày 28 tháng giêng năm 1989, Ngài được nói là đã trút hơi thở cuối cùng trong hoàn cảnh rất bí mật, hưởng dương 51 tuổi. Để tiếp tục truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, năm 1995 Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã chứng nhận Gendun Choekyi Nima là Đức Ban Thiền thứ 11, nhưng sau đó Bắc Kinh đã bắt cóc vị này cùng với cha mẹ và họ bị mất tích cho đến ngày nay.  Trung Cộng sau đó tự chọn một cậu bé khác tên là Gyaltsen Norbu để ngồi vào chức vị Ban Thiền Lạt Ma thứ 11, người mà hầu hết nhân dân Tây Tạng tẩy chay.

    dalai_lama

    Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ XIV
    His Holiness The XIV The Dalai Lama
    登珠嘉穆錯 - Tenzin Gyatso

    dalai lama 1

    dalai lama 2dalai lama 3


    Đức Đạt-Lai Lạt Ma thứ 14 hiện nay đã lớn tuổi, nếu một ngày nào đó Ngài viên tịch thì chắc chắn Trung Cộng sẽ chọn một vị Đạt-Lai mới cũng giống như Ngài Ban Thiền thứ 11 thì truyền thống Phật giáo Tây Tạng sẽ mai một.

    SOURCE: TVHS

    Read more »
  • TRÍCH DỊCH VÀI KỆ TÁNH KHÔNG TRONG TRUNG LUẬN SANSKRIT (Mūla-madhyamaka-kārikās)

     

     

    TRÍCH DỊCH VÀI KỆ TÁNH KHÔNG
    TRONG TRUNG LUẬN SANSKRIT (Mūla-madhyamaka-kārikās)
    (Phước Nguyên trích dịch nguyên văn Sanskrit)

    Tôi (Long Thọ) xin kính lễ Ngài - nhân vật vĩ đại nhất trong hết thảy các nhà thuyết pháp.
    (Phật là) Bậc giác ngộ hoàn toàn, đã giảng thuyết (lý Duyên Khởi như vậy):

    (Bất cứ cái gì cũng) Không diệt, không sinh, không đoạn tuyệt, không thường hằng, không đồng nhất, không dị biệt, không đến, không đi, thì cái lý Duyên Khởi (có các đặc trưng) như thế sẽ chặn đứng mọi khái niệm đa dạng, và là cát tường (śiva).  Mmk LVP 11,13-16


    1/Nếu tôi không chấp thủ các pháp, như thế là sự chứng nghiệm Niết bàn, Niết-bàn sẽ là của tôi. Những ai có sự thừa nhận như vậy, là mức nhận thức sai lầm cao nhất của sự chấp thủ.  (MMK 16.9)

    2/ Trạng thái tồn tại độc lập sinh khởi trong các điều kiện và nguyên nhân, đây là điều phi lý.

    Một trạng thái tồn tại độc lập được sinh khởi trong các nguyên nhân và điều kiện, phải là cái được dựng lập theo quy ước.
    (MMK 15.1)

    3/ Làm thế nào mà nó có thể có được “Trạng thái tồn tại độc lập đã được tác thành theo quy ước,

    Bởi vì trạng thái tồn tại độc lập không phải là giả lập cái được tác thành mang tính tượng trưng và không phụ thuộc vào bất cứ cái gì khác. (MMK 15.2)

    4/ Nếu ông dõi theo  tất cả các thứ  như là sự tồn tại thực sự từ trạng thái tồn tại cá biệt của nó. Như thế thì ông sẽ dõi theo tất cả các thứ đó như là không có nguyên nhân và điều kiện (MMK 24.16). 

    5/ Nhân và quả của chính bản thân nó, cùng với người hành động, công cụ, các hành vi, sự sinh khởi - diệt tận và kết quả cũng sẽ bị loại trừ ((MMK 24.17)

    6/Bất cứ thứ gì tồn tại nhờ vào ‘điều kiện hỗ tương’ thì đều tịch diệt xét trên mặt trạng thái tồn tại độc lập (MMK 7.16.ab).

    7/ Nếu có một trạng thái cố định, thì tất cả mọi sự tồn tại sẽ không sinh khởi và không bị chặn đứng; nhất định sẽ mãi mãi thường trú cố định, tách ra khỏi nhiều trạng thái bất đồng (MMK 24.38).

    8/ Nếu những thứ tồn tại là trạng thái nguyên thủy, thì sẽ không xảy ra sự không tồn tại. Bởi vì sẽ không bao giờ xảy ra trường hợp mà trạng thái nguyên thủy trở thành một cái gì khác. (MMK 15.8).

    9/Những điều không có trạng thái tự tồn tại bởi vì chúng được nhìn nhận là đang thay đổi thành một cái gì khác.

    Những điều không hiện hữu trạng thái tự tồn tại, bởi vì điều này là tính không. (MMK 13.3).

    10/Nếu trạng thái tự tồn tại không có mặt thì sẽ có sự thay đổi của cái gì? (MMK 13.4ab) 

    Nếu trạng thái tự tồn tại có mặt thì sẽ có sự thay đổi của cái gì? (MMK 13.4.cd)

    11/ Ở đây, chính bản thân cái này đang tồn tại với trạng thái cá biệt của nó không bị biến đổi [trở thành cái gì khác]; Chính bản thân của cái khác kia cũng không bị biến đổi để trở thành gì cái gì khác.

    Cho nên, bản thân của người trẻ đang không thể có tuổi già và cũng chính bản thân của người già đang không thể không có tuổi trẻ. (MMK 13.5)

    12/Nếu chính điều này tự nó thay đổi thành một cái gì khác, thì sữa chính nó sẽ trở thành phô-mai. Cái gì khác biệt so với sữa mà nó có thể trở thành phô-mai? (MMK 13.6)

    13/Sự xuất hiện và tan hoại không thể xảy ra đối với tánh Không

    Cũng thế, sự xuất hiện và tan hoại không thể xảy ra đối với cái không phải tánh Không (MMK 21.9).

    14/ Ai thấy được duyên khởi, người ấy cũng thấy được cái này, là sự khổ, sự tập khởi của khổ, sự diệt tận tập khởi của khổ và con đường hướng đến sự diệt tận tập khởi của khổ. (MMK 24.40)


    15/ Cái gì là duyên khởi tôi nói cái đó là tính Không,

    Tính Không ấy là khái niệm quy ước. Và chính nó cũng là Trung Đạo. (MMK 24.18)

    16/ Bởi vì có động lực thúc đẩy là Tính Không, cho nên tất cả pháp được tác thành.

    Nếu không động lực thúc đẩy là Tính Không, thì tất cả pháp không được tác thành  (MMK 24.14).

    17/Bởi vì không có pháp nào không từ nhân duyên mà sinh khởi. Do đó, không có pháp nào mà không có tính Không (MMK 24.19).

    18/ Vì ‘sinh khởi’ – ‘tồn tục’ – ‘tiêu diệt’ không thành lập cho nên không tồn tại ‘cái được tác thành do các điều kiện hỗ tương cùng tụ hội’ (hữu vi).

    Và khi “cái được tác thành do các điều kiện hỗ tương cùng tụ hội’ (vô vi) không thành lập được thì làm thế nào ‘cái không được tác thành do các điều kiện cùng tụ hội’  thành lập được đây? (MMK 7.33)

    19/ Không bị phá huỷ, không đạt đến, không có cái gì bị đoạn trừ, không có cái gì được chứng đắc.

    Không diệt, không sinh: ở đây được gọi là Niết-bàn. (MMK 25.3)

    20/ Nếu tồn tại cái không phải là tính Không, thì sẽ tồn tại cái tính Không.

    Nếu không tồn tại cái không phải tính Không, thì làm sao có sự tồn tại của tính Không? (MMK 13.7).

    21. Nếu tồn tại không thể chứng minh được như vậy, thì không-tồn tại không thể chứng minh được.
    Bởi vì người ta nói không tồn tại là dạng tồn tại khác của tồn tại… (MMK15.5)

    22. Nếu quan điểm của họ về tính Không bị sai lầm, thì những người đần độn sẽ bị tổn hại.

    Cũng giống như việc xử lý con rắn một cách sai lầm, hay sự chế tạo bùa mê không đúng phương cách (MMK 24.11).

    23. Bằng thí dụ là thứ giống như huyễn thuật, giống như giấc mộng, giống như thành phố gandharva (Càn-thát-bà), ‘sinh khởi’ – ‘tồn tục’ – ‘tiêu diệt’ được thuyết minh giống như vậy.

    24. “Nó tồn tại” là chấp thường, “nó không tồn tại” là một quan điểm của hoại diệt.

    Do đó, người có sự thể nghiệm, đừng nên đình trú trong sự tồn tại hoặc không tồn tại (MMK 15.10).

    25. “Bởi vì cái gì tồn tại do trạng thái cá biệt của nó không phải không tồn tại”; vì thế đây là quan điểm thường còn. “Điều này, nó xuất hiện từ trước đến nay, không phải là sự tồn tại”, dẫn đến quan điểm đoạn diệt. (MMK 15.11).

    26. Bất cứ cái gì khởi lên hệ thuộc vào cái khác, trước hết, không phải là nó mà cũng không phải khác. Do đó, nó không bị đoạn diệt mà cũng không phải thường còn. (MMK 18.10)


    27. Không phải một, không phải nhiều, không phải đoạn diệt, không phải thường còn: Đây là giáo lý bất tử (śāsanāmṛtam) của Chư Phật, những vị nhiếp hộ thế gian (lokanāthānāṃ) (MMK 18.11).

    28. Do bởi có sự thể nghiệm trực tiếp về tồn tại và không tồn tại, đức Thế Tôn đã phủ định cả tồn tại lẫn không tồn tại qua lời dạy của ngài ở trong kinh kātyāyana. (MMK 15.7)

    29. Tuy nhiên, người có trí tuệ thấp kém nhìn ‘trạng thái tồn tại’  và ‘trạng thái phi tồn tại' của sự vật, người đó không thấy được cái an ổn đó là sự tịch diệt của đối tượng. (MMK 5.8).


    30. Không nhận thức thông qua những cái khác, tịch tĩnh, không bị bố trí bởi các khái niệm giả lập

    Thoát ra khỏi cấu trúc mang tính ngôn ngữ (vikalpa), ở ngoài sự phân biệt, đây là những đặc điểm của chân như. (MMK 18.9).

    31. Người ta nói rằng: “có một cái tự ngã”, đối lập với “vô ngã” v.v..đã được giảng thuyết.

    Đức Phật cũng dạy không có bất cứ cái gì được gọi là tự ngã, cũng không có cái gì được gọi là vô ngã. (MMK 18.6).

    32.“Tánh không” không nên nói đến mà “không tánh không” cũng không.

    Cả hai hoặc không cái nào, nhưng nó được nói vậy vì mục đích của sự quy ước (prajñapti). (MMK 22.11).

    33. Những người không biết sự khác biệt giữa hai sự thật

    Không biết thực tại thậm thâm trong lời dạy của Phật. (MMK 24.9)

    34. Không dựa vào (anāśritya) quy ước phổ thông (vyavahāram), yếu nghĩa toàn diện (paramārtha) không thể được công bố (deśyate).

    Không đạt đến sự thật tuyệt đối, thì Niết bàn cũng không thể được đạt đến. (MMK 24.10).

    35. Làm lắng xuống tất cả các sự thủ đắc (upalambha= thu hoạch), và làm yên lắng tất cả các hình thái tượng trưng (prapañca). Đức Phật không ở một nơi nào diễn thuyết bất kỳ giáo Pháp cho bất cứ ai. (MMK 25-24)

    36. Và bởi vì tất cả mọi sự tồn tại đều là Tính Không.

    Cho nên, đối với ai và đối với những cái gì mà lại có sự dẫn đến quan điểm về sự hiện hữu thường tồn ở trước v.v…? (MMK 27.29).

    37. Con kính đảnh lễ đức Gautama, ngài đã giữ vững sự từ bi toàn vẹn.

    Vị mà đã công bố giáo pháp hiện thực để loại trừ tất cả các nhận thức chủ quan và sai lầm. (MMK 27.30).

    38.  Đấng Chiến Thắng (jina) dạy tính Không cốt yếu để từ bỏ nhận thức sai lầm,

    Những ai có quan điểm sai lầm đối với tánh Không, thì sự giảng dạy đó sẽ không có tác dụng. (MMK 13.8).

    39.  Bất cứ cái gì bám vào ngôn ngữ bị từ chối, bởi vì nó bị từ chối bởi kinh nghiệm của Tâm,

    Bản chất không sanh và không diệt của các Pháp có thể so sánh được với Niết-bàn. (MMK 18.7).

    Source: TVHS

    Read more »
  • NHẬP TRUNG ĐẠO: CON ĐƯỜNG BỒ TÁT TÍCH HỢP ĐẠI BI VÀ TRÍ TUỆ

    Nguyệt Xứng (c. 570 - 650) 
    NHẬP TRUNG ĐẠO: 
    CON ĐƯỜNG BỒ TÁT TÍCH HỢP ĐẠI BI VÀ TRÍ TUỆ 

    Trí địa thứ sáu: Hiện Tiền Địa (Bài 9.1) 
    Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc

    Bản Anh: Introduction to the Middle Way. Chandrakirti’s Madhyamakavatara with  Commentary by Jamgon Mipham. Translated by The Padmakara Translation Group (2002). Shambhala, 2004.

    Các kệ tụng Nhập Trung Đạo

     

    VI.1. Trên trí địa Hiện tiền (= Tiến bộ không thể bị đảo ngược), tâm an trú trong tịnh chỉ, bồ tát tiến thẳng tới các tính đức của Phật quả. Bồ tát thấy tính bình đẳng của duyên khởi, an trú trong trí tuệ siêu việt, do thế thành tựu diệt tận.

     

    VI.2. Cá nhân có mắt (trí tuệ toàn hảo) có thể dẫn các kẻ mù (kẻ có hai che lấp: phiền não, sở tri) đến nơi họ muốn đến. Trí tuệ toàn hảo có thể dẫn năm toàn hảo khác đến Tối Thắng.

     

    VI.3. Tôi sẽ giảng pháp rất thâm mật này, theo các tác phẩm của Ngài Long Thọ cao quý. Thật chứng của ngài được trình bày với lí luận và kinh điển vẫn còn lưu truyền trong truyền thống hiện hành.

     

    VI. 4. Kẻ thường tục khi nghe về tính không sẽ cảm thấy hoan hỉ. Đôi mắt họ sẽ rơi lệ và các sợi lông trên da đều dựng đứng.

     

    VI.5. Họ là các kẻ tiếp nhận giáo pháp tính không, có hạt giống của trí tuệ cho phật quả. Chân lí tối hậu nên được giảng cho họ, các tính đức sẽ sinh khởi.

     

    VI.6. Họ luôn luôn trụ trong giới hạnh, thực hành bố thí, trưởng dưỡng đại bi. Họ trụ trong thuận nhẫn và thiền định, hướng tất cả phúc đức cho phật quả, có thể đưa các kẻ lữ hành tới tự do.

     

    VII.7. Họ tận tụy thực hành pháp theo các Bồ tát toàn hảo, và thấu hiểu đạo lộ của trí tuệ thâm mật và đại bi vạn hạnh. Họ sẽ đạt trí địa Hoan Hỉ. Các kẻ ngưỡng mộ hãy lắng nghe đạo lộ này.

     

    --------------------

     

    Sơ đồ Bản Giải thích

     

    Trí địa thứ sáu: Hiện tiền địa

     

    A.  Giải thích tóm tắt về trí địa thứ sáu từ lập trường của trí tuệ thật chứng tính không

     

    B. Giải thích chi tiết về trí địa thứ sáu từ lập trường về tính không, lãnh vực hoặc đối tượng của trí tuệ siêu việt

     

    1. Sự tuyệt vời của tính không

     

    2. Trình bày về tính không này

     

    a. Cách thức trình bày tính không

     

    b. Các kẻ được nghe giảng về tính không.

     

    i. Các kẻ nên được tiếp nhận lời giảng về tính không

     

    ii. Khuyến khích lắng nghe các giáo pháp về tính không

     

    (1) Các tính đức nối kết với phương tiện thiện xảo trên phương diện tương đối sẽ sinh khởi

     

    (2) Các tính đức của trí tuệ siêu việt sẽ sinh khởi 

     

    -----------------------------------------------------------------------------------------------------------

     

    Giải thích Nhập Trung Đạo

     

    Trí địa thứ sáu: Hiện tiền địa

     

    A. Giải thích tóm tắt về trí địa thứ sáu từ lập trường của trí tuệ thật chứng tính không

     

    VI.1. Trên trí địa Hiện tiền (= Tiến bộ không thể bị đảo ngược), tâm an trú trong tịnh chỉ, bồ tát tiến thẳng tới các tính đức của Phật quả. Bồ tát thấy tính bình đẳng của duyên khởi, an trú trong trí tuệ siêu việt, do thế thành tựu diệt tận.

     

    Trên trí địa thứ sáu, Tiến bộ không thể bị đảo ngược, các Bồ tát cư trú trong tịnh chỉ cao nhất của tâm. Năng lực của trí tuệ siêu việt của họ cho họ sự thông hiểu hoàn toàn về hai chân lí, và họ dung nhập tuyệt hảo lí tính duyên khởi. Nói khác đi, họ có một trải nghiệm trực tiếp về bản chất tối hậu của các hiện tượng, tri nhận chúng là bất thực (unreal) và “tương tợ phản chiếu” (“reflectionlike”). Trên trí địa thứ năm (Nan thắng địa), đặt tiêu điểm trên chân lí của đạo lộ, các Bồ tát trên trí địa thứ sáu tiến bộ không thể bị đảo ngược tiến tới sự thành tựu các tính đức của phật quả. Họ có thể thấy chân lí của các hiện tượng, tức là, chúng hoàn toàn là chủ thể với các nhân duyên (subject to conditions), sự thuần hiển bày của tùy thuộc tương liên (the mere play of interdependent). Với sự lí hội thông hiểu này, họ cư trú trong toàn hảo của trí tuệ và như vậy thành tựu diệt tận (nirodha; cessation). Sự diệt tận này thì không giống như diệt tận trải nghiệm bởi các Thanh Văn và các Độc giác Phật, vì các trải nghiệm này chỉ can dự đến sự kiểm soát bảy thức và các tâm hành của chúng. Trái lại, sự diệt tận của các Bồ tát được ghi nhận là sự hoàn toàn không có tất cả các cấu trúc của tưởng (cấu trúc bản thể học).

     

    B. Giải thích chi tiết về trí địa thứ sáu từ lập trường về tính không, lãnh vực hoặc đối tượng của trí tuệ siêu việt

     

    1. Sự tuyệt vời của tính không

     

    VI.2. Cá nhân có mắt (trí tuệ toàn hảo) có thể dẫn các kẻ mù (kẻ có hai che lấp: phiền não, sở tri) đến nơi họ muốn đến. Trí tuệ toàn hảo có thể dẫn năm toàn hảo khác đến Tối Thắng.

     

    Một cá nhân, có thể nhìn, thì có khả năng dễ dàng dẫn một nhóm người mù tới nơi đến theo lòng mong muốn của họ. Năm toàn hảo đầu cũng tương tợ nhóm người mù. Nếu không có tri kiến về tính không, tất cả các tính đức của năm toàn hảo đầu cũng đều là “không thị giác” (“sightless”). Nhưng khi chúng được nâng lên và hướng dẫn bởi trí tuệ siêu việt, chúng dẫn đến phật quả, quả vị của đạo lộ, phương diện của Ánh Sáng Phổ quát  (Universal Light) (Theo giáo pháp Mahayoga tantra, là địa thứ 11, tương ứng trạng thái phật trong phương diện ứng hoá thân. Chú thích bản dịch Anh).

     

    2. Trình bày về tính không này

     

    a. Cách thức trình bày tính không

     

    Một Bồ tát trên trí địa thứ sau thật chứng bản chất của duyên khởi như thế nào? Ngài Nguyệt Xứng tuyên bố trong bản Giải thích Nhập Trung Đạo của ngài (Madhyamakavatarabhasya; Commentary on the “Supplement to (Nagarjuna’s) “Treatise on the Middleway”) rằng ngài không có khả năng để trả lời một câu hỏi như thế, bởi vì thủy tinh thể của mắt ngài bị đục do vô minh. Ngài nói, đúng hơn không nên hỏi ngài, chúng ta nên đưa vấn đề tới một vị nào thực sự cư trú trên trí địa thứ sáu hoặc cao hơn. Chúng ta nên hỏi các vị mà hương thơm của lí hội thông hiểu đã hoàn toàn xóa tan các thứ vô minh, và tuệ nhãn sở hữu các hình ảnh không bị che lấp. Nói cách khác, chúng ta nên trình bày với chư Phật và chư Bồ tát -- những vị có thật chứng như tính (suchness).

     

    Chúng ta có thể phản đối điều này vì các Kinh Bát Nhã và Kinh Thập địa (Dasabhumika -sutra) đều nói rằng các Bồ tát tu tập trí tuệ toàn hảo lí hội thông hiểu ý nghĩa của duyên khởi phải có khả năng trả lời câu hỏi này trên căn bản của giá trị kinh điển, nhưng một lần nữa, ngài Nguyệt Xứng trả lời rằng diệu nghĩa  của các bản kinh thì khó mà  quán chiếu với sự xác thực và rằng, trong bất kì trường hợp nào, các cá nhân tương tợ như ngài không có khả năng biểu thị như tính theo giá trị khả năng của họ (authority), ngay cả khi họ quay sang nương tựa vào kinh.

     

    VI.3. Tôi sẽ giảng pháp rất thâm mật này, theo các tác phẩm của Ngài Long Thọ cao quý. Thật chứng của ngài được trình bày với lí luận và kinh điển vẫn còn lưu truyền trong truyền thống hiện hành.

     

    Tuy thế, ngài chỉ rõ rằng ngài Long Thọ cao quý đã viết các bộ luận về Trung Đạo, đều là các tác phẩm giá trị xác thực (authoritative) và giảng giải như tính theo cách Bồ tát trí địa thứ sáu lí hội thông hiểu -- và giảng giải này thực hiện theo các yêu cầu nghiêm trang của kinh điển, và bằng các phương pháp hữu hiệu về biểu thị lí luận. Do thế ngài Nguyệt Xứng kết luận rằng sự giải thích của ngài sẽ tuân theo truyền thống của ngài Long Thọ, vì truyền thống này vẫn hiện hữu trong thời đại của ngài.

     

    b. Các kẻ được nghe giảng về tính không.

     

    i. Các kẻ nên được tiếp nhận lời giảng về tính không

     

    VI. 4. Kẻ thường tục khi nghe về tính không sẽ cảm thấy hoan hỉ. Mắt họ sẽ rơi lệ và các sợi lông trên da đều dựng đứng.

     

    Ngay cả trong trường hợp người thường tục, có một số người, khi nghe giảng các giáo pháp về tính không, trải nghiệm một sự hoan hỉ mãnh liệt dâng lên trong tim họ. Mắt họ ứa lệ, và họ nổi da gà (their skin stand up in goose-flesh).

     

    VI.5. Họ là các kẻ tiếp nhận giáo pháp tính không, họ có hạt giống của trí tuệ cho phật quả. Chân lí tối hậu nên được giảng cho họ, các tính đức sẽ sinh khởi.

     

    Đây là một dấu hiệu rằng họ có trong họ hạt giống của trí tuệ siêu việt cách tuyệt cấu trúc của tưởng của giác ngộ toàn hảo, sự thật chứng về tính không. Những người như thế là các pháp khí đích thực cho các giáo pháp về chân lí tối hậu. Họ nên được giảng dạy bởi vì các nỗ lực của họ sẽ có kết quả.

     

    ii. Khuyến khích lắng nghe các giáo pháp về tính không

     

    (1) Các tính đức nối kết với phương tiện thiện xảo trên phương diện tương đối sẽ sinh khởi

     

    Các tính đức thiện hảo sinh khởi khi những người này được giảng dạy tu tập trong học thuyết tính không. Ngài Long Thọ trong “Hiển bày của Bồ đề tâm” (Bodhicittavivavarana; Exposition of Bodhicitta)

     

    “Những kẻ lí hội thông hiểu tính không của các hiện tượng nhưng cũng tin vào luật của nghiệp và các nghiệp quả đều thật là tuyệt vời thiện hảo trên cả tuyệt vời thiện hảo, quá đỗi kì diệu trên cả quá đỗi kì diệu

     

    (Those who understand the sunyata of phenomena [but also] believe in [the law of] karma and its results are more wonderful than wonderful, more astonishing than astonishing. Translated by Chr. Lindtner).

     

    Điều này nghĩa là nếu, tín nhiệm sự kiện các hiện tượng chẳng có hiện hữu tự tính, một cá nhân đạt được sự xác tín thật sự chân lí của tiến trình nguyên nhân và hiệu quả, và gia tăng hoan hỉ trong tu tập phương tiện thiện xảo, kẻ đó sẽ  tìm thấy tri kiến xác thực. Nếu, trên phương diện khác, nếu sự kiện này không đúng, cá nhân được nói đến không là một pháp khí thích hợp cho học thuyết tính không, và kết quả sẽ là như sau:

     

    Một khiếm khuyết trong tri kiến về tính không

     

    Sẽ chứng minh tai họa của sơ trí

     

    Bạn đạt sự lí hội thông hiểu về tính không tuy chưa hoàn toàn, nhưng bạn sẽ tin chắc chân lí về học thuyết về nghiệp, nguyên lí của nguyên nhân và hiệu quả.

     

    VI.6. Họ luôn luôn trụ trong giới hạnh, thực hành bố thí, trưởng dưỡng đại bi. Họ trụ trong thuận nhẫn và thiền định, hướng tất cả phúc đức cho phật quả, có thể đưa các kẻ lữ hành tới tự do.

     

    Từ sợ hãi do tạo các hành động bất thiện sẽ đưa đến tái sinh đọa vào các cõi thấp kém (không thể tiếp nhận các giáo pháp về tính không và thiền định về tính không), kẻ tu tập tuân giữ giới hạnh thanh tịnh, và ngăn ngừa nó bị suy thoái. Ngoài ra, ngay dù họ có thể sinh vào các cõi cao đẹp hơn, họ phải vẫn phải nghĩ đến Phật, Bồ tát, hữu tình các cõi thấp hơn, thực hiện các thiện hạnh, gửi tặng thực phẩm, thuốc men, v.v… Bởi vì những điều này tạo nên các nhân duyên để nghe giảng và thiền định về tri kiến tính không. Thông hiểu rằng tri kiến tính không mà chẳng có đại bi, sẽ chẳng có kết quả trong sự thật chứng phật quả, họ thấm nhuần tâm họ trong đại bi. Nhận thức rằng các hiền thánh tiếc thương cho các kẻ giận dữ, giận dữ tạo nên hình tướng độc ác và tái sinh trong các cõi thấp kém, nên họ đào luyện thuận nhẫn. Và do nhận biết nếu họ không hồi hướng công đức đến sự thành tựu giác ngộ, sự gia tăng liên tục của phúc đức sẽ gặp trở ngại, họ nguyện giới hạnh của họ, v.v… đều hướng thẳng tới sự thật chứng trí tuệ siêu việt về tính không, và tới sự giải thoát các hữu tình trong sự toàn giác của phật quả.

     

    VII.7. Họ tận tụy thực hành pháp theo các Bồ tát toàn hảo, và thấu hiểu đạo lộ của trí tuệ thâm mật và đại bi vạn hạnh. Họ sẽ đạt trí địa Hoan Hỉ. Các kẻ ngưỡng mộ hãy lắng nghe đạo lộ này.

     

    Các Thanh Văn, các Độc giác Phật, và các kẻ thường tục không có khả năng giảng giải chi tiết học thuyết xác thực về tính không. Thế nên kẻ tu học biểu thị lòng tôn kính đối với các Đại Bồ tát sở hữu tri kiến này.

     

    (2) Các tính đức của trí tuệ siêu việt sẽ sinh khởi  

     

    Một cá nhân tu tập trí tuệ siêu việt, không li cách với phương tiện thiện xảo, sẽ tiến bước theo đạo lộ tư lương và đạo lộ gia hành và theo thứ tự thành tựu Hoan Hỉ Địa.  Bất kì ai mong ước một sự thành tựu như thế phải theo đạo lộ trí tuệ siêu việt đang được trình bày ở đây. Cũng như các bản kinh giải thích chi tiết pháp tính thanh tịnh và tối hậu của các hiện tượng, kinh Thập Địa nói: “Kẻ tiến từ trí địa thứ năm tới trí địa thứ sáu bằng cách chứng  mười bình đẳng tánh của các hiện tượng”.

     

    Tất cả các hiện tượng đều bình đẳng theo nghĩa rằng:

     

    (1) chúng đều vô tánh (They are without attributes)

     

    (2) chúng đều vô tướng (alaksana) (they are without a particular nature)

     

    (3) chúng đều vô khởi (anutpada) (they cannot be produced)

     

    (4) chúng đều vô sanh (ajata) (they are unproduced)

     

    (5) chúng đều không có tự tánh (they are empty)

     

    (6) chúng đều thanh tịnh từ đầu (adividisuddha) (they are utterly pure primordially)

     

    (7) chúng đều vượt ngoài các cấu trúc của tưởng (nisprapanca) (they are beyond all conceptual constructions)

     

    (8) chúng đều vượt ngoài thủ, xả (anyuha-niryuha) (they are beyond acceptance and rejection)

     

    (9) chúng đều tương tợ các huyễn tượng, các chiêm bao, các ảo ảnh sóng nắng, các vọng thanh, mặt trăng phản chiếu trong nước, các phản chiếu, các hiển bày ảo thuật (they are like illusions, dreams, mirages, echoes, the moon reflected in water, reflections, and magical displays)

     

    (10) chúng đều chẳng thực chẳng phi thực (bhavabhavadvaya; phi hữu phi vô) (they are neither real nor unreal).

     

    (1) Mặc dầu các hiện tượng hình như có các tướng trạng khác nhau, nhưng các tướng trạng này không xuất hiện trong tịnh chỉ của các hiền thánh.

     

    (2) Các hiện tượng không xuất hiện theo bản chất của chúng.

     

    (3) Các hiện tượng đều vô khởi -- không bắt đầu hiện hữu vào một sát na tiếp theo.

     

    (4) Các hiện tượng đều là vô sinh. Đó là không có một loại sản phẩm nào có thể được xem là nguyên nhân đối với chúng.

     

    (5) Các hiện tượng đều là không có hiện hữu tự tính (empty) vì chúng đã vô khởi và sẽ vô khởi.

     

    (6) Các hiện tượng không “thủ đắc” (acquire) bản chất cố hữu (fore-mentioned characteristics) khi bản chất của chúng được kinh và lí luận khai hiển, bởi vì chúng hoàn toàn thanh tịnh từ khởi đầu.

     

    (7) Các hiện tượng đều vượt ngoài các cấu trúc của tưởng. Nói khác đi, các tiến trình tinh thần nhị kiến (dualistic mental processes) tạm đặt tên pháp tính/ thật tại (reality) cho các giả  danh (tên tạm đặt), không còn vận hành quan liên tới các giả danh nữa.

     

    (8) Các hiện tượng đều vượt ngoài sự phân biệt thủ, xả.

     

    (9)  Bảy so sánh tương tợ ghi trên miêu tả đầy đủ bản chất của chúng.

     

    (10) Không một hiện tượng nào có thể nói là hiện hữu thể có tự tính hoặc phi hiện hữu thể.

     

    Về mười điểm trên, chỉ có cái thứ ba, quan liên tới vô khởi, có thể được an lập bằng phép lí luận và là chủ đề của bản giải thích này. Một sự lí hội thông hiểu về các điểm khác là kết quả riêng biệt của sự thật chứng.

     

    ---------------------------------------------------------------------------------------------------

     

    Bản dịch Việt bài 9.1. Giải thích Nhập Trung Đạo (gồm 7 kệ tụng) chấm dứt ở đây.

     

    Bản Giải thích Nhập Trung Đạo do Dzongsar Jamyang Khyense Rinpoche giảng (2013), nói , theo truyền thống, sau kệ tụng VI. 7, vì chúng ta không đủ trí tuệ để thông hiểu diệu pháp,nên sẽ có một nghi lễ cầu nguyện phúc đức và sự gia hộ của Phật khi bắt đầu đi vào kệ tụng VI.8, tức là đi vào tinh yếu của Nhập Trung Đạo của ngài Nguyệt Xứng.

     

    Dưới đây là lời mở đầu của Bản Giải thích Nhập Trung Đạo do Mipham Rinpoche giảng cho bản dịch Nhập Trung Đạo (Bài 9.2).

     

    “Tiếp theo đây là giải thích về tính không, gồm có hai phần: sự an lập tính không bằng sự biểu thị thuận lí và phong cách an lập các tiêu chuẩn về tính không. Phần thứ nhất lại được chia thành hai phần: phần sử dụng lí luận để bác bỏ ngã của các hiện tượng, và phần sử dụng lí luận để bác bỏ ngã của các cá nhân”.     

     

    ---------------------------------------------------------------------------------------------

     

    Phụ bản 1.

     

    N. Dutt. Đại thừa và sự liên hệ với Tiểu thừa. Thích Minh Châu dịch (p.381)

     

    Abhimukhì (Hiện tiền địa) hay Pratiyasamutpàdapratisamyuktàdhiprajnàvihàra (Duyên khởi tương ưng thượng trí trú) 

     

    Vị Bồ-tát, sau khi thành tựu các Màrgas (Đạo), bước qua Địa thứ sáu và chứng 10 bình đẳng tánh, nghĩa là các pháp đều bình đẳng vì các pháp là:

     

    1) animitta (vô tướng), 
    2) alaksana (vô tánh), 
    3) anutpàda (vô khởi), 
    4) ajàta (vô sanh), 
    5) vivikta (thoát ly), 
    6) àdivisuddha (thanh tịnh từ ban đầu), 
    7) nisprapanca (vô hý luận), 
    8) ànyùha-niryùha (bất thủ, bất xả), 
    9) màyàsvapnapratibhasapratisrutkopamrà (giống như huyễn mộng, vọng thanh), 
    10) bhàvàbhàvàdvaya (phi hữu phi vô).

     

    Nhờ quán sát sự vật như vậy, vì Bồ-tát, nhờ thâm tín, lên được Địa thứ sáu, nhưng chưa chứng anutpattikadharmaksànti (vô sanh pháp nhẫn = tin sự vật tự tánh là bất sanh). Vì nặng lòng Đại từ, vị Bồ-tát thương xót các chúng sanh, vì vô minh che lấp, xem sự vật ở đời là có sanh, có diệt và có ngã. Vì không hiểu sự thật, chúng theo tà đạo, bị thiện và bất thiện chi phối, và do vậy có những abhisamskàras (hành). Tâm chủng tử (cittabìja) do hành tạo ra trở thành lậu nhiễm (sàsrava), đầy những chấp thủ (upàdàna), và tạo ra sanh, lão tử và tái sanh. Rồi do thức thuộc về karmaksetra (Nghiệp điền), tức là vô minh và ái, một lưới tà kiến được dệt vào, và từ đó sinh ra nàmarùpa (danh sắc); từ danh sắc, tiếp tục khởi lên 5 giác quan, xúc, thọ, thụ hưởng (abhinandana), tương ưng với trsna (ái), upàdàna (thủ) bhava (hữu), và 5 uẩn phân chia theo 5 loại chúng sanh (gatipancaka). Các chúng sanh này rồi rơi vào lão, ưu bi khổ não v.v... Vị Bồ-tát hiểu rằng không có người tạo ra những điều trên, vì mọi sự vật tự tánh không được tạo sanh bởi sức mạnh nào hết (anàbhoga, sàntilaksana), rồi diệt mất và không có ai diệt chúng. Vị Bồ-tát lại chứng ngộ, không hiểu sự thật tối thượng là vô minh và vô minh là nhân phát sinh hành (samkàra), hành phát sinh tâm thức (citta-vijnàna), đầu tiên câu hữu với 4 thủ uẩn (upàdàna- skandha), từ đấy sanh ra danh sắc (nàma-rùpa) và dắt dẫn đến khổ uẩn. Cây đau khổ khởi lên, không có người tạo tác hay thọ hưởng (kàrakavedakasahita). Cho nên vị Bồ-tát chứng ngộ ba giới là duy thức (cittamàtram yad idam tràidhàtu kam).

     

    Do hiểu lý nhân duyên từ mười vị trí, và vì tin tưởng không có người làm hay người thọ hưởng, không có vị tạo chủ (asvàmika), và mọi sự vật đều bị lý nhân duyên chi phối, không có thực chất, xa lìa tất cả và tự tánh không hiện hữu, vị Bồ-tát chứng được sùnyatà-vimoksamukha (thoát ly khỏi không tánh). Do hiểu được các bhavangas (những móc nối trong dây chuyền nhân duyên) tự tánh là đoạn diệt (svabhàva-nirodha), vị Bồ-tát không phân biệt dharmanimitta (pháp tướng) nào và như vậy chứng được animitta-vimoksamukha (vô tướng giải thoát).

     

    Cuối cùng, nhờ hiểu được sùnyatà (không tướng) và animittatà (vô tướng) của tất cả bhavangas, vị Bồ-tát thật tình không thấy sự giải thoát gì (vimoksa), dù hình như tỏ ra đang làm như vậy vì lòng thương xót vô lượng chúng sanh; nhờ vậy, vị này chứng được apranihita-vimoksamukha (vô nguyện giải thoát).

     

    Luôn luôn đề cao lòng đại từ, vị Bồ-tát thành tựu viên mãn các phẩm trợ đạo còn lại, và tin tưởng các samskàras được tác thành bởi những phần tử mà tự tánh là bất sanh bất diệt, vị Bồ-tát hướng tâm về Asangajnàna (vô tham diệu trí), gọi là Prajnàpàramitavihàra (Bát nhã Ba-la-mật trú) và tu tập phát triển trí ấy một cách mạnh mẽ. Nay vị Bồ-tát tu hành mọi loại thiền định về sùnyatà (hư không), animitta (vô tướng) và apranihita (vô nguyện) và tu tập 10 àsayas để tiến dần lên các quả vị cao hơn và khỏi có thể rơi vào Thanh văn hay Độc giác. Trong 10 Ba-la-mật, vị Bồ-tát tu tập Bát nhã Ba-la-mật.

     

    Một vị Bồ-tát nhờ đi ngang qua các Địa này, chứng được mọi đặc tánh của vị A-la-hán, ngoài những đặc tánh cần thiết cho một vị Bồ-tát. Nay vị Bồ-tát trở thành một vị A-la-hán, vì như tập Lankàvatàra (Nhập Lăng già) đã nói, vị Bồ-tát đã thoát khỏi mọi vọng tưởng (vikalpa) về dhyàna (thiền), dheya (đối tượng của thiền), samàdhi (định), vimoksa (giải thoát), bala (lực), abhijnà (thắng trí), klesa (phiền não) và Dukkha (khổ).

     

    Theo các nhà Tiểu thừa, người tu hành khi thành tựu các hạnh Bát nhã, trở thành một vị A-la-hán. Ngài Buddhaghosa dành 20 chương cuối của tập Visuddhimagga để giải thích mọi vấn đề liên quan đến Pannàbhùmi (Bát nhã địa). Trong Địa này (Vis, tr.443-587) người tu hành được xem là phải nghiên cứu, phân tích 5 uẩn, 12 xứ, 20 căn, 4 đế và 12 nhân duyên. Đây chỉ là bước đầu của sự tu tập về Pannàbhùmi. Nhờ các pháp môn này, người tu hành thành tựu viên mãn Bhàvanàmàrga (Tu đạo vị). Chúng ta đã thấy, tu đạo vị bắt đầu từ sát-na thứ 16, nghĩa là sát-na cuối cùng của Darsana-màrga (Kiến đạo vị) khi người tu hành trở thành bậc Dự lưu (srotàpanna). Như vậy người tu hành, trong khi tiến dần qua các vị trí giải thoát, thành tựu viên mãn giới thanh tịnh và định thanh tịnh và một phần tuệ thanh tịnh. Các Visuddhis (thanh tịnh vị) này như được phân loại trong tập Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) (tr. 443, 587 v.v...) và tập Abhidhammatthasangaha (Comp. Of Phil. Tr.65 v.v...) gồm có Ditthivisuddhi (Kiến thanh tịnh), Kankhàvitaranavimsudhi (Đoạn nghi thanh tịnh: 16 loại nghi thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai đều được diệt trừ), Maggàmagganànadassanavisudbhi (Đạo phi đạo tu kiến thanh tịnh: Thanh tịnh do tri kiến phân biệt rõ ràng chánh đạo và phi đạo), Patipadànàna dassanavisuddhi (Hành đạo tri kiến thanh tịnh = Tri kiến thanh tịnh trong khi hành đạo) và nànadassanavisuddhi (Tri kiến thanh tịnh) (Ngài Buddhaghosa gọi 5 visuddhi này là sarìra (thân) và sìla và cittavisuddhi là mùla (căn bản), Vis. M. tr.443).

     

    Trong giai đoạn A-la-hán, vị tu hành đoạn trừ 5 thượng phần kiết sử còn lại, mọi phiền não (klesas), lậu hoặc (àsavas) và cuối cùng hiểu rõ chân ý nghĩa của 4 Đế, nghĩa là được giác ngộ, tâm trí hoàn toàn giải thoát. Vị Bồ-tát không còn phải tái sanh và sẽ chứng Niết bàn. Sự giải thoát này của các vị A-la-hán cũng được các tác phẩm Prajnàpàramità và các phẩm Đại thừa khác xác nhận. Đoạn văn được tả đại khái như sau: một vị A-la-hán là ksìnàsrava (lậu hoặc trừ), Nisklesa (phiền não đoạn), Vasìbhùta (tự điều tự phục), Suvimuktacitta (tâm trí giải thoát), Suvimuktaprajnà (trí tuệ giải thoát), àjàneya (khó được tác thành), Kstakrtya (đã làm những việc đáng làm) Apahrtabhàra (đã hạ xuống gánh nặng 5 uẩn), Anupràptasvakàrtha (thành tựu viên mãn mục đích đời sống) và Pariksìnabhavasamyojana (giải thoát mọi kiết sử tái sanh).

     

    Tương đương với hai hạng Dự lưu gọi là Saddhànusàrì (Tín hành) và Dhammànusàrì (Pháp hành), các vị A-la-hán cũng được chia thành hai hạng: Ubhatobhàgavimukta (Song phần nhập tâm giải thoát) và Pannàvimutta (Huệ giải thoát). Hạng đầu là những vị đã thành tựu 8 giải thoát và diệt trừ các lậu hoặc nhờ trí tuệ (Pannà). Hạng thứ hai là những vị chưa thành tựu 8 giải thoát nhưng đã đoạn trừ các lậu hoặc nhờ trí tuệ.

     

    Hình như tất cả các vị A-la-hán không chứng được Patisambhidàs (Vô ngại giải), còn vị Bồ-tát thành tựu pháp này cùng với các pháp khác, vào địa thứ chín. Chúng ta cũng thường tìm thấy một vị A-la-hán chứng được Patisambhidàs thường được đặc biệt diễn tả là Sahapatisambhidà arahattampàpuni (thành tựu A-la-hán quả với vô ngại giải).

     

    Với địa thứ sáu, sự so sánh giữa các vị thứ Tiểu thừa và Đại thừa của chúng ta được chấm dứt. 4 Địa còn lại không liên hệ gì với phương pháp tu hành Tiểu thừa và các quả vị mà một vị Bồ-tát cố gắng thực hành các công hạnh thuộc 4 Địa này không được các nhà Tiểu thừa biết đến.

     

    Từ Địa thứ bảy trở đi, thật sự bắt đầu sự cố gắng của vị Bồ-tát để chứng Dharmasùnyatà (Pháp không). Nirnimittatà (Vô tướng) của sự vật do chúng ta nhận thức. Và bốn địa sau cùng chỉ nêu rõ sự phát triển tuần tự trí tuệ của vị Bồ-tát cho đến khi chứng được Tathàgatabhùmi (Như lai Địa). Ở Địa này, vị Bồ-tát trở thành đức Như Lai viên mãn và đồng nhất với các đức Như Lai khác. Các vị Tiểu thừa lẽ dĩ nhiên đặt đức Phật lên địa vị tối cao với những thần lực và siêu tánh đặc biệt, một số thần lực và siêu tánh này được tìm thấy trong 4 Địa cuối cùng.

     

    -----------------------

     

    Phụ bản 2

     

    Nguyệt Xứng
    ĐIỂM XUẤT PHÁT, CHỦ ĐỀ, VÀ QUAN TÂM TỐI HẬU CỦA TRUNG LUẬN CỦA LONG THỌ 
    Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
    Bản dịch Anh: Bản Anh Ngữ : Lucid Exposition of the Middle Way. Prasannapada of Candrakirti. Translated by Mervyn Sprung. Routledge, London. 1979 (Nguyệt Xứng. Minh Cú Luận)

     

     ***

     

    Kính Lễ của ngài Nguyệt Xứng gửi tới Ngài Long Thọ

     

    *

     

    Sau khi tôi đỉnh lễ ngài Long Thọ,

     

    vị xuất sinh từ trí tuệ đại hải của đấng toàn giác,

     

    và vị vượt trên cõi nhị nguyên,

     

    vị đại bi khai hiển chân lý thâm mật của bảo tạng Phật Pháp

     

    vị bằng tuệ quán tăng thượng, thiêu hủy hoàn toàn các tri kiến của các đối thủ của ngài như chúng là nhiên liệu, và phá hủy hoàn toàn bóng tối trong các tâm trí của loài  người ;

     

    các pháp thoại của ngài về trí tuệ siêu việt, giống như vô số nêu và đích của con đường tỉnh biết (tiêu chuẩn của hồng tâm giác), giải tán hoàn toàn các đối nghịch với đời sống;

     

    các ngôn từ của ngài là cương yếu diệu mỹ cho sinh hoạt trong ba cõi (cõi dục, cõi sắc và cõi vô sắc) và cũng cho các phật tử và chư thiên;

     

    Sau khi tôi đỉnh lễ

     

    Tôi sẽ giải thích tường tận bộ Trung Luận của ngài trong các biểu từ chính xác, lý hội đầy đủ, trong sáng và không có các biện luận vô bổ. 

     

    ***   

     

    Điểm xuất phát, chủ đề và quan tâm tối hậu của Trung Luận của Long Thọ 

     

    Bộ luận tuyệt vời chúng ta sắp thảo luận là bộ luận khởi đầu với kệ tụng ‘Không từ chính chúng, cũng không từ cái khác, cũng không từ cả hai…”

     

    Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì. Trong Nhập Trung Đạo [Nguyệt Xứng. Nhập Trung Đạo/ Madhyamakavatara] , điều được khẳng định là trí tuệ siêu việt của đấng toàn giác có điểm xuất phát từ một bản nguyện phát bồ đề tâm bắt nguồn từ đại bi, và được hỗ trợ với sự lý hội thông hiểu vượt trên tính nhị nguyên.

     

    Trong quan niệm này ngài Long Thọ, nhận biết chính xác làm cách nào  giảng dạy trí tuệ siêu việt, đã tăng trưởng bộ luận này do lòng đại bi và cho sự giác ngộ của các người khác. Nền tảng của bộ luận này, có thể nói là “Một bộ luận đáng tin cậy có một giáo pháp là một căn cứ vững mạnh để chế ngự các phiền não tai hại và để tập quen vượt qua các biến dịch thăng trầm của đời sống. Hai phẩm tính này không được tìm thấy trong bất kỳ các bộ luận khác”

     

    Ngài Long Thọ cho chúng ta một tổng quan về chủ đề và quan tâm tối hậu của bộ luận sâu sắc chúng ta sắp thảo luận. Với tính phân minh chính xác của thánh trí, và ý nguyện tôn kính, bằng một bộ luận, vị thầy vô thượng, vị toàn giác không hề ly cách với tồn sinh và chân lý của thánh trí, ngài nói

     

    “Tôi đỉnh lễ đấng toàn giác, vị thầy vô thượng của các vị thầy, ngài thuyết giảng, 

     

    Cái gì duyên khởi,

     

    Không diệt, không sinh, không đoạn, không thường,

     

    Không đến, không đi, không sai biệt, không đồng nhất

     

    Là niết bàn tịch tĩnh hoàn toàn, không có các cấu trúc của tưởng [về hiện hữu tự tính và tính nhị nguyên]”

     

    Duyên khởi [= thật tướng của sự vật], trong tướng trạng miêu tả bởi tám phương diện “không diệt, không sinh” và các tương tự, là chủ đề của bộ luận này.

     

    Quan tâm tối hậu của bộ luận này được minh bạch khẳng định là niết bàn (nirvana) : sự tịch tĩnh đến để làm an tĩnh các cấu trúc của tưởng / các phương diện của các sự vật được đặt tên (sarvaprapancopasama).

     

    Lời kính lễ được ghi trong các từ ngữ “Tôi đỉnh lễ vị thầy vô thượng của các vị thầy”.

     

    --------------------------

     

    Phụ bản 3. Tính không

     

    Trích từ bài Giới hạn của ngôn ngữ (Nguyệt Xứng. Minh cú luận.p.179)

     

    Và từ Chính định vương kinh / Nguyệt đăng tam muội kinh (Samadhirajasutra):

     

    “Khi Đức Phật, thánh giả, quốc vương của chân lí, vị khai hiển của tất cả các chân lí xuất hiện, điệp khúc thì được vang lên từ cây cỏ, cây con và cây lớn và cây nhỏ, từ sỏi đá và các núi non: tất cả các tập hợp của đời sống đều là tính không / tính chân không diệu hữu”

     

    “Bất kì xa xôi cách nào chỉ thuần các đơn vị chữ viết, lời nói vươn tới cõi thế tục, tất cả đều là tính không/ tính chân không diệu hữu, chẳng có cái chi là thật [ thật = chẳng biến dịch]; và  vang xa là tiếng gọi của đức Phật, vị hướng dẫn và vị thầy của tất cả loài người”.

     

    *  

     

    And from the Samadhirajasutra:

     

    ‘When Buddha, the sage, the king of truth, the revealer of all truths appears, the refrain is sounded from grass and bush and tree and plants, from the rocks and the mountains: all element of existence are without being’.

     

    “Howsoever far mere words reach in the world realm, all are without being, none is real; and so far resounds the call of the realized one, the guide and teacher of all men.’

     

    ---------------------------

     

    Niết bàn

     

    Khi chư Phật nhập niết bàn, đại lạc tối hậu, đó là sự an tĩnh của các cấu trúc của tưởng, chư Phật tương tợ như các thiên nga huy hoàng trong bầu trời, tự thong dong trong hư không hoặc trong chân không diệu hữu của hư không trên đôi cánh của tích tập phúc đức và trí tuệ; kết quả nên biết đó là bởi vì chư Phật không tri nhận các đối tượng là các tướng trạng, không có ‘Chân Lý’ gắt gao bất kỳ là cái gì quan liên đến sự nô lệ hoặc sự tịnh hoá đã được giảng dạy giữa hoặc cho cõi trời hoặc cõi người dù là bất kỳ cái gì. 
    *
    When the illustrious Buddhas are in nirvana, the ultimate beatitude, which is the coming to rest of named things as such, they are like kingly swans in the sky, self-soaring in space or in the nothingness of space on the twin wings of accumulated merit and insight; then it should be known, that, because they do not perceive objects as signs, no rigid ‘Truth’ whatsoever either concerning bondage or purification has been taught either among or for any gods or men whatsoever.

     

    *Candrakirti. Lucid Exposition of the Middle Way. Prasannapada of Candrakirti . Translated by Mervyn Sprung -- p. 262. (Nguyệt Xứng. Minh Cú luận) 

     

    -----------------------------

     

    Phụ Bản 4.  Bổn Vô / Chân Như
    Xin nhớ đến lời Đại sư Tăng Triệu (374 - 414) (tịch lúc 31 tuổi) trong Triệu Luận, phần Tông Bản Nghĩa:
    “Bổn vô / Chân như, Thật tướng, Pháp tánh, Tánh không, Duyên hội, năm danh từ trên vốn chỉ có một nghĩa. 
    Để vạch ra tông chỉ chánh pháp là căn bản của bổn Luận, hai chữ Bổn Vô / Chân Như chỉ ngay tâm tịch diệt vốn không một pháp, lià tất cả tướng, dứt bặt Thánh phàm, nên gọi là Bổn Vô /Chân Như, chẳng phải có ý làm thành vô (có nghĩa là chẳng phải từ hữu lần biến thành vô, vì Bổn Vô / Chân Như này nó vượt ngoài cái có và không tương đối).
    Vì tất cả pháp đều do vọng tâm tùy duyên biến hiện mà có, tâm vốn vô sanh, chỉ do nhân duyên hội hợp mà sanh nên gọi là DUYÊN HỘI. 
    Vì duyên sanh ra các pháp, vốn không có thật thể, do nhân duyên sanh ra nên nói không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, vì pháp thể là chơn như biến hiện nên gọi là PHÁP TÁNH. 
    Do chơn như pháp tánh mà thành các pháp, chơn như không có tướng, nên bản thể các pháp tịch diệt, nên gọi là THẬT TƯỚNG. 
    Vì bổn vô / chân như là thể của tâm, duyên hội là dụng của tâm, thật tướng , pháp tánh , tánh không, đều là cái nghĩa do tâm tạo thành vạn pháp nên nói là một nghĩa vậy …
    Tại sao vậy? Tất cả các pháp đều do nhân duyên hội hợp mà sanh, duyên hội mà sanh thì khi chưa sanh không có, duyên lìa thì diệt, nếu mà thật có, có thì chẳng diệt. Theo đó mà suy ra thì biết, dù nay hiện ra có, cái có ấy tánh thường tự không, vì tánh thường tự không, nên gọi là TÁNH KHÔNG, bởi vì tánh không nên gọi PHÁP TÁNH, pháp tánh chân thực như thế nên gọi là THẬT TƯỚNG, thật tướng vốn không có tự thể, chẳng phải do suy lường mà cho đó là không, nên gọi là Bổn Vô / Chân như.”

     

    (Trích từ Triệu Luận Lược giải. Thích Duy Lực dịch, trong CHƯ KINH TẬP YẾU, trang 470 - 471) ..

     

    *Bổn vô: thời ngài La thập dịch là bổn vô; về sau dịch là Chân như

    Source: TVHS

     

    Read more »
  • NGƯỜI HIỂU RÕ VỀ SỰ KHÔNG-SINH-TỬ LÀ MỘT NGƯỜI CAO QUÝ

     

    NGƯỜI HIỂU RÕ VỀ SỰ KHÔNG-SINH-TỬ
    LÀ MỘT NGƯỜI CAO QUÝ

     Câu Chuyện Về Sư Bà Kisāgotami, Kệ 114 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú
    Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến 

    (The Seer Of The Deathless Is A Worthy One
    The Story of Nun Kisāgotami, Verse 114 - Treasury Of Truth,
    Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero
    Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)

    BÀI KỆ 114:

    114. Yo ca vassasataṃ jīve
    apassaṃ amataṃ padaṃ
    ekā’haṃ jīvitaṃ seyyo
    passato amataṃ padaṃ. (8:15)

    Người sống một trăm năm mà không hiểu rõ về Sự Không-Sinh-Tử thì không cao quý cho bằng người chỉ sống một ngày mà hiểu rõ về Sự Không-Sinh-Tử.

    Trong khi cư trú tại Tu Viện Jetavana (Kỳ Viên), Đức Phật đã nói bài kệ này về sư bà Kisāgotami.

    Kisāgotami là con gái của một người đàn ông giàu có ở tỉnh Sāvatthi (Xá Vệ); vì thân thể cô gầy ốm nên mọi người gọi cô là Kisāgotami (Kisā = gầy ốm). Chồng của cô Kisāgotami là một chàng thanh niên trẻ tuổi giàu có, và vợ chồng cô có một đứa con trai. Cậu bé con cô, qua đời khi bé mới chập chững tập đi, làm cho cô Kisāgotami hết sức đau buồn, giống như quả tim cô bị tan vỡ. Cô mang xác chết con trai mình đi khắp mọi nơi, để tìm phương thuốc cứu sống con của cô. Mọi người lúc ấy nghĩ rằng cô đang bị điên. Tuy nhiên, có một người đàn ông khôn ngoan hiểu được hoàn cảnh của cô, ông nghĩ ra cách giúp đỡ cô. Do đó, ông nói với cô, "Đức Phật là người mà cô cần gặp, ngài có toa thuốc mà cô đang đi tìm; cô hãy đi gặp ngài." Nghe lời ông, cô đi gặp Đức Phật, và cô xin ngài cho cô toa thuốc để cứu sống con cô.

    Đức Phật nói với cô rằng, cô hãy đi xin một ít hạt cải (mù tạc) từ một ngôi nhà mà chưa từng có người chết. Bế con trong lòng, cô Kisāgotami đi từ nhà nầy sang nhà khác, để xin hạt cải. Mọi người đều sẵn lòng giúp cô, tuy nhiên, cô không thể nào tìm ra căn nhà mà chưa từng có người chết. Sau đó, cô nhận ra rằng cô không phải phải là gia đình duy nhất mà đang đối mặt với cái chết, vì cô thấy số người đã chết còn nhiều hơn là số người đang còn sống. Ngay sau khi cô nhận ra điều nầy, thái độ của cô đối với đứa con cô nay đã thay đổi; cô không còn bị dính mắc vào thân xác của đứa con cô nữa.

    Cô để xác con trong rừng, và cô trở về gặp Đức Phật, rồi cô thưa với ngài là cô không thể nào tìm ra căn nhà mà chưa từng có người chết. Sau đó, Đức Phật nói rằng, "Như thế, con không mang về được hạt cải nào, có đúng không?" "Bạch Thế Tôn, dạ đúng. Bất cứ ngôi làng nào con đến, số người đã chết còn nhiều hơn là số người đang còn sống." Rồi, Đức Phật tiếp lời cô, "Trong lúc đau khổ, con tưởng tượng rằng con là người mẹ duy nhất đã mất con. Tuy nhiên, tất cả mọi người đều phải chịu đựng chung một quy luật bất biến, như sau: Thần Chết, giống như là một cơn lũ lụt đang giận dữ, cuốn phăng đi tất cả mọi chúng sinh, rồi hủy hoại họ nơi biển sâu; và cơn lũ lụt nầy thì chẳng bao giờ ngưng nghỉ. Gotami, trước kia con nghĩ rằng con là người mẹ duy nhất có con bị chết. Giờ đây con đã nhận ra, tất cả mọi người đều sẽ phải chết; thần chết sẽ đưa con người ra đi, trước khi các mong ước của họ được hoàn thành." Sau khi nghe xong, cô Kisāgotami hiểu biết thật rõ ràng về sự vô thường, về sự bất toại nguyện, và về sự không-vững-chắc của năm uẩn, và cô đạt quả Nhập Lưu.

    Sau đó không lâu, cô Kisāgotami trở thành một sư cô. Một ngày kia, khi cô thắp các ngọn đèn dầu lên, cô nhìn thấy các ngọn lửa đột ngột bừng sáng lên, rồi vụt tắt đi, làm cho cô đột nhiên nhận-thấy rõ ràng sự sinh ra, và sự mất đi của con người. Đức Phật, qua sức thần thông, nhìn thấy cô từ tu viện của ngài, và ngài phóng quang rồi xuất hiện trước mắt cô. Ngài bảo cô Kisāgotami rằng, cô hãy tiếp tục thiền định về bản chất vô thường của tất cả chúng sinh, và cô hãy nỗ lực phấn đấu để đạt quả Niết Bàn. Sau đó, cô đã đạt được các tầng lớp cao hơn trong sự giác ngộ về tâm linh. 

    BÀI KỆ 114, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI

    amataṃ padaṃ apassaṃ yo ca vassasataṃ jīve
    amataṃ padaṃ passato ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo

    amataṃ padaṃ: trạng thái không sinh tử (Niết Bàn); apassaṃ: mà không nhìn thấy;

    yo ca: nếu một người nào; vassasataṃ jīve: sống một trăm năm;

    amataṃ padaṃ: trạng thái không sinh tử (Niết Bàn); passato: của người nhận biết;

    ekāhaṃ: (thuộc về, trong) một ngày; jīvitaṃ: cuộc sống; seyyo: là cao quý

    Người sống chỉ một ngày mà hiểu rõ về sự không-sinh-tử, thì cao quý hơn và tốt hơn là người sống được một trăm năm, mà không hiểu rõ về sự không-sinh-tử.

    Bài kệ 114 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ như sau:

    (114) Trăm năm sống chẳng nhận ra. Pháp kia bất tử. Thật là uổng thay! Chẳng bằng sống chỉ một ngày. Mà rồi giác ngộ thấy ngay Niết Bàn. Nơi bất diệt, đẹp vô vàn. Không trò bệnh lão, không màn tử sinh.

    BÌNH LUẬN

    amataṃ padaṃ: trạng thái không sinh tử (Niết Bàn). Niết Bàn được mô tả như là trạng thái 'không sinh tử' bởi vì đây là sự chấm dứt các ảo ảnh trong cuộc sống. Đạt được quả Niết Bàn bằng cách loại bỏ đi cá-tính (cái tôi) trong khi trải-nghiệm về năm uẩn.

    Hình-ảnh của chính-mình, mà chúng ta giữ trong tâm, được tạo ra từ các hiện tượng khách-quan (rồi chúng ta biến đổi theo cách của chúng ta). Con người chúng ta là sự tiếp nối các hình-ảnh nầy của chính-mình, mà được mọi người gọi là cá-tính. Khi chúng ta gỡ bỏ hình-ảnh nầy của chính-mình bằng cách loại bỏ đi phần cá-tính, chúng ta không còn tồn-tại. Khi chúng ta không còn tồn-tại (sống), chúng ta không còn bị chết. Đây chính là trạng thái không-sinh-tử. Khi chúng ta quan sát những gì đang xảy ra, để chúng đến rồi đi, mà không dính mắc vào chúng (cá nhân hóa chúng), có nghĩa là chúng ta đang sống trong trạng-thái Niết Bàn, không còn sinh-tử, ngay bây giờ và ở đây.

    Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

     

    SHORT TITLE:

    The Story of Nun Kisāgotami, Verse 114, Treasury Of Truth

    FULL TITLE:

    The Seer Of The Deathless Is A Worthy One - The Story of Nun Kisāgotami, Verse 114 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

    VERSE 114:

    114. Yo ca vassasataṃ jīve

    apassaṃ amataṃ padaṃ

    ekā’haṃ jīvitaṃ seyyo

    passato amataṃ padaṃ. (8:15)

    Though one should live a hundred years

    not seeing the DeathlessState,

    yet better is life for a single day

    seeing Deathlessness.

    While residing at the Jetavana Monastery, the Buddha spoke this verse, with reference to Kisāgotami.

    Kisāgotami was the daughter of a rich man from Sāvatthi; she was known as Kisāgotami because of her slim body. Kisāgotami was married to a rich young man and a son was born to them. The boy died when he was just a toddler and Kisāgotami was stricken with grief. Carrying the dead body of her son, she went about asking for medicine that would restore her son to life from everyone she happened to meet. People began to think that she had gone mad. But a wise man seeing her condition thought that he should be of some help to her. So, he said to her, “The Buddha is the person you should approach, he has the medicine you want; go to him.” Thus, she went to the Buddha and asked him to give her the medicine that would restore her dead son to life.

    The Buddha told her to get some mustard seeds from a house where there had been no death. Carrying her dead child in her bosom, Kisāgotami went from house to house, with the request for some mustard seeds. Everyone was willing to help her, but she could not find a single house where death had not occurred. Then, she realized that hers was not the only family that had faced death and that there were more people dead than living. As soon as she realized this, her attitude towards her dead son changed; she was no longer attached to the dead body of her son.

    She left the corpse in the jungle and returned to the Buddha and reported that she could find no house where death had not occurred. Then the Buddha said, “Did you not get the single pinch of mustard seed?” “No, that did I not, Venerable. In every village the dead are more in number than the living.” Said the Buddha, “Vainly did you imagine that you alone had lost a child. But all living beings are subject to an unchanging law, and it is this: The prince of death, like a raging torrent, sweeps away into the sea of ruin all living beings; with their longings still unfulfilled. Gotami, you thought that you were the only one who had lost a son. As you have now realized, death comes to all beings; before their desires are fulfilled death takes them away.” On hearing this, Kisāgotami fully realized the impermanence, unsatisfactoriness and insubstantiality of the aggregates and attained sotāpatti fruition.

    Soon afterwards, Kisāgotami became a nun. One day, as she was lighting the lamps she saw the flames flaring up and dying out, and suddenly she clearly perceived the arising and the perishing of beings. The Buddha, through supernormal power, saw her from his monastery, and sent forth his radiance and appeared to her in person. Kisāgotami was told to continue meditating on the impermanent nature of all beings and to strive hard to realize Nibbāna. She reached higher stages of spiritual awakening.

    EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 114)

    amataṃ padaṃ apassaṃ yo ca vassasataṃ jīve

    amataṃ padaṃ passato ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo

    amataṃ padaṃ: Deathless state (nibbāna); apassaṃ: without seeing;

    yo ca: if an individual; vassasataṃ jīve: were to live a hundred years;

    amataṃ padaṃ: the deathless state (nibbāna); passato: the perceiver’s;

    ekāhaṃ: one day’s; jīvitaṃ: life; seyyo: is noble

    A single day’s life of a person who sees the state of deathlessness is far greater and nobler than the hundred-year life-span of a person who does not perceive the deathless state.

    COMMENTARY

    amataṃ padaṃ: the state of deathlessness – Nibbāna. Nibbāna is characterized as ‘the deathless’ because it is the cessation of the illusion of existence. Nibbāna has to be won by depersonalizing the personalized five-fold totality (pancūpādāna khanda) of experience.

    The self image of existence that we carry in our mind is created by the personalization of impersonal phenomena. Our existence or being is the continuation of this self image called personality. When we have removed this self image through depersonalization, we cease to exist. When we cease to exist, we cease to die. This is the deathless state. To observe the experience, as it comes and goes, without personalizing it, is to experience the deathless Nibbāna here and now. 

    Source: TVHS

    Read more »
RSS