Niệm Phật Đường
Welcome
Login / Register

Exoteric scriptures - Hiển giáo


  • ÁI DỤC KHÓ DỨT TRỪ

    ÁI DỤC KHÓ DỨT TRỪ
    Thích Đạt Ma Phổ Giác

    Một chàng cư sĩ đã có vợ và con, ý thức được sự khổ não của đời sống gia đình, nên anh thỏa thuận với vợ để được xuất gia. Cô vợ đồng ý, anh ta được Phật tế độ và nhờ Phật chỉ dạy phương pháp diệt trừ ái dục. Sau đó, anh một mình tiến vào rừng sâu, thực hành hạnh buông xả suốt ba năm, nhưng không thành công, mà luôn khởi ý niệm thương nhớ về vợ con ngày càng mãnh liệt. Buồn quá, anh quyết định hoàn tục, trở về đời sống gia đình, vui vẻ sống bên con, bên vợ.

       Phật biết điều này, nên Người dùng thần lực đến gặp và khéo léo phương tiện để giúp đệ tử mình vượt qua đam mê luyến ái dục vọng. Kẻ bị tù đày làm súc sinh, quỷ đói hoặc bị đọa địa ngục nhưng có ngày ra khỏi, người vô minh, mê muội, vướng vào tiền bạc nhà cửa, luyến ái vợ con, biết chừng nào mới hết khổ đau bởi luân hồi, sinh tử. Nói xong, Phật dùng kệ để nhắc lại phương pháp hành trì:

    Như chặt cây mà không bứng rễ
    Cành nhánh vẫn mọc lại bình thường
    Muốn trừ ái dục si mê
    Bứng ngay rễ ý an nhiên thanh nhàn.

         Vị đệ tử sau khi nghe lời Phật dạy, thường xuyên quán chiếu tinh cần, nên một thời gian sau chứng quả giác ngộ giải thoát.

       Tâm tham ái dục vọng là một dòng chảy miên man vô tận, bởi các thói quen lâu đời do ta đã huân tập. Chính nó đã ăn sâu vào tâm thức của chúng ta, và theo ta từ vô thủy kiếp đến nay, chỉ cần ý khởi lên là tâm niệm thèm khát trong ta sẽ trỗi dậy vô cùng mãnh liệt. Nếu ta lơ là, bất giác một chút, thì nó nhanh chóng cuốn ta nhớ về dĩ vãng, quá khứ chung đụng ái ân, như vị tỳ kheo trên. Do chấp ngã thấy thân này là thật, nên ta dễ sinh kiêu mạn, và bám víu vào đó, dính mắc, chấp trước. Những tư duy và nhận thức của ta đều có thể được tô điểm cho bản ngã lớn thêm, nên ta say mê, đắm đuối vào ái dục, không biết chừng nào mới thoát ra được. Phật dạy, ái dục từ tâm ý phát sinh, nó là đầu mối dẫn ta đi trong luân hồi sinh tử để chịu khổ đau. Muốn dứt trừ nó cũng không khó, chỉ cần ta chịu khó buông xả từng ý niệm khi nó phát sinh, và cứ như thế, ta cố gắng duy trì bền bỉ, chuyển hóa từng ý niệm.

        Đặc điểm của kinh là đức Phật sử dụng rất nhiều hình ảnh tuyệt diệu. Một trong số đó là hình ảnh con tằm kéo cái kén làm thành tù ngục để tự giam hãm nó. Trong một bản dịch khác đã dùng hình ảnh con nhện với cái lưới của nó. Tuy nhiên cả hai hình ảnh đều cùng diễn tả một hành động của kẻ thiếu trí tuệ, đó là tự giam mình trong tù ngục của dâm dục, cái nhà tù do chính họ tự tạo ra mà không phải ai khác. Người trí thì có khả năng chấm dứt và buông bỏ, không đoái hoài tới sắc dục, nên có thể diệt trừ được tất cả khổ nạn. 

        Khi Phật còn tại thế, nhiều vị tỳ kheo đã chứng quả A La Hán nhờ quán về đề mục, “thân này gồm có 32 phần thể trược trong cơ thể”. Nhờ quán như vậy, nên ta bớt tham đắm vào sắc thân ô uế; do đó, ta không si mê, dính mắc, tham đắm vào ái dục. Chính ta tham muốn ái dục, nên chấp trước, bám víu vào đó, mà làm khổ đau cho nhau. Không một ai có thể phủ nhận sự hiện hữu của đau khổ trên cõi đời này. Đau khổ mà con người phải gánh chịu ngày hôm nay là hậu quả do chúng ta đã làm những nghiệp bất thiện trong quá khứ, chính lòng ham muốn ái dục là động cơ thúc đẩy ta hành động tạo nghiệp từ thân, miệng, ý. Cũng chính ái dục thúc đẩy con người luyến ái, bám víu, và dai dẳng đeo đuổi theo sự sống. Lòng khát khao ham muốn ấy lôi cuốn con người từ kiếp sống này đến kiếp sống khác, không có ngày thôi dứt.

    (347)

    Những người ái dục đắm chìm
    Xuôi dòng ái dục vào miền khổ đau
    Lọt vòng dây trói trước sau
    Tựa như con nhện mắc vào lưới giăng.
    Ai mà dứt mọi buộc ràng
    Không còn ái dục, chẳng vương não phiền.
    (348)

    Mặc cho quá khứ trôi đi
    Níu chi hiện tại, chờ gì tương lai
    Rời mau bến thảm cuộc đời
    Vượt qua bờ nọ là nơi tuyệt vời
    Khi tâm đã giải thoát rồi
    Đâu còn sinh lão nổi trôi xoay vần.

    (349)

    Người nào bị khuấy động nhiều
    Bởi tâm xấu ác, bởi điều bất lương
    Thường ham dục lạc vô cùng,
    Người mà dục lạc cầu mong tăng nhiều
    Tự mình một sớm một chiều
    Trói mình thêm chặt vào theo não phiền.

    (350)

    Ai vui vì chẳng còn vương
    Tư tưởng bất thiện, bất lương loại trừ,
    Xác thân bất tịnh suy tư
    Giữ gìn chánh niệm, thích ưa điều lành
    Sẽ trừ ái dục vây quanh
    Ma Vương ràng buộc phá nhanh dễ dàng.  

         Kẻ có tâm ý buông luông, phóng đãng, khi nhìn vào một người khác phái sẽ cho đó là một cái gì tinh khiết, nên ham muốn thèm khát ái dục. Họ không biết rằng, sự tăng trưởng lớn mạnh của ái ân, sẽ đem tới nhiều hệ lụy khổ đau ràng buộc, giống như người phạm tội bị giam cầm trong lao ngục.

         Những ai biết vâng theo lời Phật dạy, thực tập chánh niệm tỉnh giác, sẽ có khả năng thấy được người khác phái kia là bất tịnh, không trong sạch; do đó, diệt trừ được tâm ham muốn, luyến ái, yêu thích, nên thoát khỏi tai ương của nhiều hệ lụy khổ đau.

      Ai bị chìm đắm và tự quấn mình trong chiếc lưới ái ân, tự che mình bằng chiếc dù ái dục, sẽ giống như con cá tự chui vào lưới, bị cái lưới ấy xiết chặt, giam hãm, không có ngày thoát ra. Ai xa lìa được tham muốn dục vọng, không đi theo vết xe của ái ân, thì có thể vượt thoát ra ngoài chiếc lưới ràng buộc, vì đam mê, dính mắc ái dục, do đó không còn bị bất cứ một cái gì làm hại được nữa. 

       Khi Phật còn tại thế, gần thành Xá Vệ, có gia đình một ông trưởng rất giàu có, nhưng lại tham lam, bỏn sẻn, keo kiết, chẳng khi nào biết giúp đỡ một ai.

         Một hôm ông thèm món thịt gà xé phay, mới bảo gia nhân bắt một gà trống thiến to béo, mập mạp. Sau khi làm xong, ông cho người đóng kín cửa lại để vợ con ông cùng thưởng thức món ăn khoái khẩu này. Phật biết ông là người có duyên được độ, nên dùng thần thông đi thẳng vào nhà. Ông nhà giàu thấy thế liền quát tháo ầm ĩ lên, “Sa môn tu hành gì mà chẳng biết xấu hổ, nhà của người ta mà tự nhiên đi vào chẳng thèm hỏi ai hết”.

       Phật mới nói rằng, “tôi đi ăn xin đâu có gì là xấu hổ. Ông mới là người đáng xấu hổ, ăn thịt cha mình mà không hay, không biết”. Ông nhà giàu tức quá mới nói, “cha tôi chết đã lâu, tại sao Ngài dám nói bậy bạ như thế?” – “Con gà ông đang ăn là cha ruột của ông đó, vì si mê tham ái, luyến tiếc quá độ, mà sinh lại làm gà để cho ông và vợ con cùng làm thịt để ăn. Đến như vợ của ông bây giờ là mẹ của ông đời trước, vì yêu thương, ham thích ái ân, nên mới sinh lại làm vợ ông đó. Ông ngu si, mê muội, lấy cha làm oán thù, lấy mẹ làm ân ái vui vầy, mà không biết tu nhân tích đức, nên phải chịu nhiều hệ lụy khổ đau trong ba cõi sáu đường không có ngày thôi dứt”.

        Khi nghe Phật nói, trong lòng ông ăn năn, hối hận vô cùng, bèn quỳ xuống xin Phật chỉ bày. Phật dùng thần lực để ông nhớ lại quá khứ, nhờ vậy, ông phát tâm quy y và lãnh thọ năm giới. Phật nói, “nhân quả nghiệp báo luôn theo ta như bóng với hình, dù trăm kiếp, ngàn đời vẫn không mất; khi hội đủ nhân duyên, quả báo hoàn tự hiện. Tham ái, yêu thương, luyến chấp, nên vợ chồng, cha mẹ, người thân cứ như thế mà tái sinh trở lại; khi thì làm cha mẹ, khi thì làm vợ con, rồi cứ thế mà ăn nuốt, giết hại lẫn nhau từ đời này sang kiếp khác”.

        Như ông nhà giàu đó ăn thịt gà, mà không biết mình đang ăn thịt cha mình, bởi người cha ngày xưa vì thương yêu, luyến ái đứa con trai, nên bị sinh trở lại làm con gà trống thiến to béo, mập mạp. Rồi người mẹ của ông cũng vậy, vì yêu thương, luyến ái con, rốt cuộc sinh trở lại để làm vợ ông. Con người cứ như thế mà chịu khổ đau trong luân hồi sinh tử, từ đời này, sang kiếp nọ, mà không có ngày thôi dứt. Hạnh phúc thay! Gia đình ông trưởng giả nhờ có duyên gặp Phật mà thấy được nhân duyên các tiền kiếp trước, nhờ vậy, ông và gia đình phát tâm quy y Phật, làm người cư sĩ tại gia, giữ gìn năm giới pháp, quyết tâm ăn trường chay để tránh tội khổ giết hại, ăn nuốt lẫn nhau.

        Người tại gia khó khăn hơn trong việc dứt trừ ái dục trọn vẹn, nên phải biết cách điều hòa, hạn chế lòng ham muốn. Tuy có gia đình, vợ chồng con cái, nhưng Phật chế ra năm giới để giúp người tại gia tránh bớt những lỗi đáng tiếc, mà cố gắng sống tốt, để làm tròn trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, người thân, phục vụ tốt cho xã hội và hộ trì cho Tam bảo.

        Không giết hại mà còn hay giúp người, cứu vật, là mở rộng lòng từ thương yêu bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. Không gian tham, trộm cướp, lường gạt của người khác, mà lại còn bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia; nhờ vậy, không có ai bị mất mát tiền bạc, tài sản, mà không phải lo lắng, sợ hãi. Vì không tà dâm nên vợ chồng sống vui vẻ, hạnh phúc, không phá hoại hạnh phúc gia đình của người khác. Vì không nói dối để dụ dỗ, lường gạt người, nên ta sống ở đâu cũng được mọi người giúp đỡ, thương tưởng. Không rượu chè be bét, say sưa, nghiệp ngập, xì ke ma túy, thì ta thông minh, sáng suốt, mà không gây khổ đau cho nhau.

        Ái dục đối với người xuất gia thì phải dứt trừ, đối với người tại gia thì phải biết điều hòa chừng mực, không quá si mê, đắm đuối và ta phải luôn ý thức sự tác hại của nó còn hơn gông cùm, tù tội. Muốn ít, biết đủ, là phương pháp rèn luyện cho ta biết cách làm chủ ham muốn nhờ có trí tuệ sáng suốt mà vượt qua luới ái, lìa buộc ràng.      

    (351)

    Mục tiêu ai đạt tới nơi
    Không còn sợ hãi xa rời nhiễm ô
    Xa lìa ái dục êm ru
    Cắt đi gai chướng nhỏ to trong đời
    Mũi tên sinh tử nhổ rồi
    Thân này là cuối, luân hồi còn đâu.

    (352)

    Xa lìa ái dục tầm thường
    Không còn luyến tiếc vấn vương bận lòng
    Bao nhiêu giáo pháp tinh thông
    Lời văn, ý nghĩa vô cùng hiểu sâu
    Là người trí tuệ hàng đầu
    Vĩ nhân đáng kính, còn đâu luân hồi,
    Thân này là cuối cùng rồi.

    (353)

    Như Lai vượt tất cả rồi
    Lại còn thông suốt, sáng soi mọi bề
    Bao nhiêu trói buộc dứt lìa
    Thoát ly tất cả còn gì vấn vương
    Chú tâm trọn vẹn một đường
    Diệt đi ái dục tầm thường thế gian
    Tự mình chứng ngộ đạo vàng
    Ta còn xưng tụng ai làm thầy đây!

        Sau khi thành đạo, Phật nhớ lời thỉnh cầu của vua Tần Bà Sa La, nên trở về nước Ma Kiệt Đà độ vua và hoàng tộc quy y Tam bảo. Do đó, nhà vua phát tâm cúng dường Tịnh xá Trúc Lâm đầu tiên. Hoàng hậu Khema, một trang tuyệt sắc giai nhân vô cùng xinh đẹp, bà rất tự hào và kiêu hãnh về sắc đẹp nghiêng thành, đổ nước của mình, không một mỹ nhân nào có thể sánh bằng. Một hôm, do lòng hiếu kỳ, bà đến Tịnh xá Trúc Lâm để tham quan thắng cảnh. Bà vô cùng ngạc nhiên vì một sự thật quá ngỡ ngàng, bên cạnh Phật là một người con gái xinh đẹp, kiều diễm, trẻ trung như tiên nữ giáng trần; nhìn lại mình, bà cảm thấy tủi hổ khi so sánh với người con gái ấy.

        Người si mê, tham ái, bị kẹt trong lưới ngũ dục như con cá bị vướng vào lưới, khó bề thoát ra. Khi ân ái đã sâu đậm, nhất là những người phụ nữ đẹp, luôn luôn bị dính mắc, nên lúc nào cũng trau chuốt và làm đẹp thân này. Tuy ái dục làm cho con người say mê, đắm đuối, và ràng buộc con người chặt chẽ, nhưng đối với người có ý chí, có nghị lực, vẫn có thể đối trị được dục ái, để được giải thoát và không còn bị phiền muộn, khổ đau chi phối.

        Hoàng hậu Khema từ xưa nay chưa bao giờ thấy một người con gái nào xinh đẹp, kiều diễm đến thế, bà cứ đắm đuối nhìn người con gái ấy mãi không chán. Đức Phật biết được tâm ý của bà, nên dùng thần lực làm cho bà nhìn thấy cô gái xinh đẹp, duyên dáng, kiều diễm, trẻ trung, có sức hấp dẫn quyến rũ ấy, bỗng dần dà trở nên già cả xấu xí. Cuối cùng, cô ta chỉ còn là một túi da bọc xương trông thật ghê gớm. Qua đó, bà bừng ngộ ra rằng, sắc đẹp thể chất, hình hài này là không thật có, nhận ra tính cách vô thường tạm bợ của đời sống con người. Bà không ngờ, chỉ trong thoáng chốc mà người con gái xinh đẹp ấy trở thành già nua và chết chóc, trông chẳng khác nào con khỉ già khô đét.

        Sau thời pháp, bà đến quỳ một bên, nhờ Phật khai thị nguyên lý vô thường, đổi thay của một con người. Phật nói, “này, hoàng hậu Khema, chúng sinh trong thế gian do đam mê, tham muốn ái dục, mà dòng sông tham ái phát sinh như giếng sâu không đáy, tham được thì càng thêm tham, nên cố tình tìm cách nắm giữ, ai làm mất mát đi thì sinh ra đau khổ. Nhưng nếu tham mà không được, thì sinh ra nóng giận, hờn mát, ghen tuông, thù ghét, nên tìm cách hủy diệt lẫn nhau. Từ đó, tâm si mê càng thêm dính mắc luyến ái vào đó, mà không có ngày vượt thoát ra khỏi, vì lưới ái càng buộc ràng hơn”. Khi bài pháp kết thúc, hoàng hậu Khema đã chứng quả Dự Lưu vào dòng Thánh.

        Bà xin vua Tần Bà Sa La được xuất gia học đạo. Nhà vua là một Phật tử thuần thành, nên rất vui vẻ, chấp nhận cho bà ngay. Sau đó, ni Khema siêng năng, tinh cần tu tập, không bao lâu đã chứng quả A la hán. Bà là một trong những trưởng lão ni xuất sắc nhất trong thời kỳ đó, để lại tiếng thơm muôn đời cho đến ngày hôm nay.

        Có người thắc mắc hỏi, “vì sao bà xuất gia” – “vì tôi đẹp, nên tôi mới xuất gia chứ!”.

        Người con gái, hay còn gọi là phái đẹp, tức là người có nhan sắc mặn mà, dễ thương; tức là vẻ đẹp bề ngoài, vẻ đẹp có thể quyến rũ và làm mê hoặc nhiều đấng mày râu. Người xuất gia phải thường xuyên quán chiếu, xem xét, để phát sinh trí tuệ thấy biết đúng như thật, vướng vào sắc đẹp làm cho ta luyến ái, sầu khổ, không ngày thôi dứt.

        Chúng ta thử đi vào thực tế cuộc đời, từ quảng cáo, sách báo, phim ảnh, đều tô son, điểm phấn cho cái đẹp của phụ nữ. Phụ nữ thích mang đồ trang sức và làm đẹp là thói quen từ bao đời kiếp đến nay. Nhờ vậy, các thẩm mỹ viện trang điểm sắc đẹp mọc lên như nấm. Sản phẩm làm đẹp cho phụ nữ và các đấng mày râu bán chạy như tôm tươi. Để thu hút đấng mày râu, các dịch dụ quảng cáo, quán xá, nhà hàng, khách sạn, ăn uống, cà phê, giải khát, đều phải tuyển các phụ nữ trẻ đẹp để kích thích lòng tham muốn ái dục. Khoa giải phẫu thẩm mỹ cũng đang rất thịnh hành, nhiều người phụ nữ đến đó bơm ngực, làm mặt cho trắng đẹp ra, nhờ mọi phương tiện thiện xảo để thay đổi, bù đắp những chỗ ta cho là không được đẹp trên thân thể.

        Người nào cũng muốn trang điểm cho vẻ đẹp bên ngoài thêm hấp dẫn, nhất là phái nữ, nhưng bên trong thì không có gì là đẹp. Đó gọi là cái thấy không chân lý, bởi vì nó không có thật, mà ta cứ tưởng là thật, nên lúc nào ta cũng trau chuốt, tô điểm cho nó, vì sợ mọi người chê ta xấu. Đó là một lẽ thật mà ta cần phải thường xuyên thực tập, quán chiếu, xem xét về sự vô thường của thân này. Vô thường là một trong những phép quán quan trọng của đạo Phật, chúng ta cần phải thực tập sâu sắc để chuyển hóa được ngục tù của ái dục.

        Hoàng hậu Khema nghĩ mình là hoa hậu thời bấy giờ, nên rất tự hào, hãnh diện về sắc đẹp nghiêng thành, đổ nước của mình. Bà cho rằng, toàn xứ Ấn độ chưa chắc có người con gái nào xinh đẹp như bà. Vừa là vợ vua, vừa là một trang tuyệt sắc giai nhân, sống một đời vương giả, quyền quý, cao sang, ai lại không ham, không thích sao được. Ấy thế mà, hôm nay, chính mắt bà nhìn thấy một người con gái đẹp đến nỗi không có chỗ nào chê được. Vậy mà trong phút chốc, từ một vẻ đẹp mỹ miều thay đổi, biến dạng, để trở thành một bà già xấu xí, một xác chết ruồi bu, kiến đậu, tanh hôi vô cùng. Nhờ vậy, bà thức tỉnh, ý thức được sự mong manh, vô thường của con người sao quá nhanh chóng. Bà giảm bớt kiêu khí tự hào, hãnh diện từ xưa nay, mà quỳ bên đức thế tôn xin Người chỉ dạy.

    Source: TVHS

    Read more »
  • THỬ GIẢI MÃ “MỘT CÕI ĐI VỀ” CỦA TRỊNH CÔNG SƠN

    THỬ GIẢI MÃ “MỘT CÕI ĐI VỀ” CỦA TRỊNH CÔNG SƠN

     

    Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
    Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt.
    Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
    Rọi suốt trăm năm một cõi đi về .

     

     
    Một Cõi Đi Về là một ca khúc cao sâu chiều kích tâm linh của Trịnh Công Sơn, cũng là tác phẩm Ông tâm đắc nhất trong sự nghiệp âm nhạc của mình.  

     

    Một Cõi Đi Về được hiểu nhiều cách khác nhau, phổ biến nhất là Cõi Chết, theo nghĩa của “sinh ký tử quy”, sống gửi thác về”. Một ý nghĩa khác là “kiếp nhân sinh”, cũng giống như “trăm năm trong cõi người ta” của Nguyễn Du vậy. Trong bài tản mạn này, xin được có thêm một góc nhìn mới về “cõi” này: cốt lõi thực sự của tâm (phục bổn hoàn nguyên) hay bộ mặt thanh tịnh của tâm (bản lai diện mục), và nói theo cách riêng của Trịnh là “vẻ nguyên vẹn” của cội nguồn tâm hay “trở về với Phật tính trong cõi riêng của mình”.

     

    Đoạn nhạc đầu tiên này có thể gọi là một bài thơ Thiền về bờ giác, bến mê, rất Trịnh. Ý tứ không lạ nhưng trở nên sống động qua cách biểu đạt mới mẻ của riêng Ông. Kinh Phật và thơ Thiền Việt Nam cũng có những bài kệ, bài thơ chuyển tải ý “đi đâu loanh quanh” hay “lang thang” này rất hay. Dù “loanh quanh” và “lang thang” hơi khác nhau, nhưng ý nghĩa chung là muốn nói về bước chân không định hướng.

     

    Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách,
    Nhựt viễn gia hương vạn lý trình
    (Trần Nhân Tông)
    Lang thang làm khách phong trần mãi,
    Ngày cách quê hương muôn dặm trình
    (Thích Thanh Từ dịch).

     

    Hay Phật trước khi Giác Ngộ cũng là một người lang thang, nhưng là lang thang đi tìm nhà, không giống như hầu hết chúng ta, tuy lang thang nhưng không tha thiết với chuyện trở về “quê quán tôi xưa”.

     

    Lang thang bao kiếp sống Ta tìm nhưng chẳng gặp,
    Người xây dựng nhà này, Khổ thay, phải tái sanh.
    (Kinh Pháp Cú, câu 153)

     

    Trịnh là một người hiểu sâu triết lý Phật Giáo nên những vấn đề như Sinh Tử Luân Hồi đều được Ông nhắc đến.

     

    Không có đâu em này Không có cái chết đầu tiên
    Và có đâu bao giờ Đâu có cái chết sau cùng
    (Ngẫu Nhiên)

     

    Vòng sinh tử “loanh quanh”, vô thủy vô chung dẫn dắt chúng sanh lăn trôi bất tận khi chưa thực sự về đến “một cõi đi về”.

     

    Kìa còn biết bao người Dìu dặt tới quanh đây
    (Ngẫu Nhiên)

     

    Ánh sáng của “đôi vầng nhật nguyệt” luôn “rọi suốt trăm năm” trong mỗi trái tim người nhưng không phải ai cũng nhận ra được. Trong truyện cổ Phật Giáo, có sự tích người ăn xin vẫn mãi xin ăn, không biết được trong nhà mình có cả một kho báu. Dựa trên giai điệu của bài Một Cõi Đi Về, xin đươc hát tếu như thế này  “Bao nhiêu năm rồi còn mãi đi xin, trong khi nơi kho muôn ngàn vàng ngọc”.

     

    Về góc độ tự sự, bốn câu đầu tiên này như một suy niệm sâu sắc về thân phận con người và cách nhìn của một thiền nhân về con đường thoát ra khỏi thân phận đó. Như một lời trách nhắc nhẹ nhàng, Trịnh tự trách mình thôi, nhắc mình thôi nhưng ai nghe cũng thấm! Những lời này cũng từng xuất hiện nhiều trong khung trời mênh mông của Trịnh, khi thấp thoáng, khi rõ ràng như ”Trăng ơi trăng rất tệ, mày đi nhớ chóng về” (Biết đâu nguồn cội) hay “Thôi về đi đường trần đâu có gì” (Phôi pha). Không phải là thân phận phù du cát bụi của kiếp người như ở đoạn sau, tàn xuân tàn hạ, mà là nỗi niềm bế tắc “loanh quanh”, “chạy vòng quanh”, “kiến bò quanh đĩa”, lòng vòng không có đường ra, đầy bi kịch phủ kín, bít lấp như “mây che trên đầu” này của hữu hạn trăm năm.

     

    Ở đây, có sự tương phản giữa hai màu sắc nghịch nhau, màu trầm tối “mỏi mệt” than van trên những bước chân không hướng và màu sáng tỏa của “nhật nguyệt” mở hướng, chiếu “nắng trên vai”. Ánh nắng ấy hiện hữu “rọi suốt”, lúc nào cũng có mặt mà sao ta lại “hững hờ” với “chôn quê nhà” đến vậy. “Nhật nguyệt í a trên cao” ấy là gì? “Cõi đi về” ấy là gì? Vẫn còn nhiều điều để nói.

     

    2.

     

    Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt   
    Rọi suốt trăm năm một cõi đi về.

     

    “Đôi vầng nhật nguyệt” hay “một cõi đi về” đều là những hình ảnh tượng trưng cho chân lý. Trong rất nhiều ca khúc của Trịnh, hình ảnh này cũng xuất hiện với nhiều tên gọi khác như “nguồn cội” (Biết đâu nguồn cội), “hư vô”, “chân như” (Giọt lệ thiên thu), “mái nhà” (Lời thiên thu gọi), “quê quán xưa” (Bên đời hiu quạnh), “địa đàng” (Dấu chân địa đàng), “vô vi” (Nguyệt ca), “thiên thu” hay “ngàn năm” (Ru mãi ngàn năm) .v..v…

     

    Làm sao để thấy được “đôi vầng nhật nguyệt” này? Trong đạo học phương Đông có câu “ngón tay chỉ trăng”, muốn thấy được chân lý (mặt trăng) phải nương theo hướng chỉ của ngôn từ (ngón tay), khi thấy chân lý rồi thì đừng nhìn ngón tay nữa. Chân lý vốn không lời, là chân kinh không chữ như  Nguyễn Du đã từng nói “Chung tri vô tự thị chân kinh” (cuối cùng mới biết rằng chân kinh là không chữ). Và “chân kinh vô tự” cũng chính là “chân tâm vô niệm”. Như vậy, muốn thấy “nhật nguyệt” hay “chân tâm” cần phải nương vào “ngón tay”, “bản đồ”, “chiếc bè” hay “nhịp cầu” của kinh điển. Đây là lý do tại sao những người tha thiết với chân lý (truth-seeker) thường tìm đến với tôn giáo.

     

    Với Trịnh, chúng ta cũng thấy nơi Ông một tấm lòng nhiệt tâm của một người khao khát muốn trở về với “mái nhà Phật tính” của chính mình: “Có những ngày tháng tôi đã bỏ mình vào một cõi tịch lặng vô ngôn để thử nhìn lại rõ mình hơn” hay “Hãy biến mình vào hư vô, vào hư vô của chính mình, vào hư vô của sự vật, vì trong hư không đó mình sẽ tìm thấy được mình và sự vật ở vẻ nguyên vẹn của nó." “Hư vô” là điều Phật cũng đã nói từ ngàn xưa: “Hãy nhìn đời trống không, thần chết không thấy được”.

     

     Khi về lại được với “cõi tịch lặng vô ngôn” hay “hư vô, hư không” đó chính là  “trở về với Phật tính trong cõi riêng mình. Đó là quê hương, là chiếc ngai Phật. Tôi ngồi, Phật sẽ tràn ngập tôi và tôi sẽ tràn ngập Phật”.

     

    Hãy cùng nghe thêm một câu nói rất hay của Ông.

    "Có kẻ đứng trước bao la mà không thấy được bao la. Có kẻ ở buổi bình minh, nghe tiếng chim hót đã chạm mặt với cõi vô lượng. Biết được vô lượng là cùng lúc đến với vô biên. Cái vô biên nằm đâu đó trên cánh vạc chở hoàng hôn về núi mỗi chiều."

     

    Và chắc không khó để nhận ra bóng dáng của chân lý qua những từ như vô lượng, vô biên. Vô lượng là chiều bao la của không gian và vô biên là chiều mênh mông của tĩnh lặng.

     

    Chiều kích vô lượng, vô biên ấy của chân lý, ví như ngọc báu, cũng có sẵn trong mỗi người chúng ta: “Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch” (Trong nhà có ngọc không cần tìm kiếm nơi nào khác cả, thơ Trần Nhân Tông) hay “You wander from room to room, hunting for the diamond necklace, that is already around your neck” (câu này của Rumi, nhà thơ đạo sĩ Hồi Giáo, thế kỷ 13, tạm dịch : Chuỗi ngọc trên cổ rồi Tại sao lại không thấy Tìm phòng này phòng nọ Lòng vòng mỏi mệt thay).

     

    Chân lý là gì? Chân lý ở đâu? Làm sao để nhận ra chân lý? Xin được nói thêm trong phần tiếp theo.

    3.

     

    Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa.
    Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ
    Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ
    Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà.

     

    Về mưa, Trịnh cũng viết nhiều bài hay như Mưa Hồng với “Này em đã khóc chiều mưa đỉnh cao, còn gì nữa đâu sương mù đã lâu”, hay Diễm Xưa với “Mưa vẫn mưa bay cho đời biển động, làm sao em nhớ những vết chim di”, rồi Chìm Dưới Cơn Mưa với “Chìm dưới cơn mưa và chìm dưới đêm khuya, trời đất bao la còn chìm đắm trong ta”. Phải chăng mưa là một dạng “thời tiết” của cuộc đời, khi dịu mát, lúc lạnh băng?

    Trong đoạn hai này của  Một Cõi Đi Về, cũng “mưa” nhưng là “mưa nơi này” và “mưa nơi xa”. Nghe mưa ở đây, hiện tại, lại nhớ về mưa nơi nào thuộc tương lai hay quá khứ? “Từng hạt nhỏ” là những suy tưởng trong tâm thức “mưa bay”? Chính những tiếng mưa vang vang mãi “trong ta” đã ngăn trở con đường “hội ngộ” với “vô biên” của “chốn quê nhà”?

    “Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ”? “Trăm năm” là một kiếp người. Trăm năm này “tử” đến trăm năm khác “sinh”, trở đi trở lại trong vòng luân hồi “vô biên”, bất tận? Ý này cũng hợp lý nhưng chỉ nói đến thực trạng “không biết nhà để về” của một người lang thang.

    Nếu sắp xếp lại để thành “Trăm năm chưa từng hội ngộ (với) vô biên” thì chiều kích “vô biên” của Đạo được “mở” rõ ràng hơn, như đã từng giải bình trong những phần trước, và người viết nghĩ đây chính là ý mà Trịnh muốn gởi gắm.

    Còn nếu hiểu “Trăm năm vô biên” là sự vô biên của tuổi thọ đời người vốn vỏn vẹn “ba vạn sáu ngàn ngày là mấy” thì quả là vô lý. Quãng thời gian ngắn ngủi ấy không thể nói là vô biên, vô hạn được, sớm muộn gì thì cũng như “vết mực”, phải chấp nhận số phận “xóa bỏ không hay” thôi!

    Trong thơ nhạc, do âm điệu, do giới hạn của câu chữ nên làm thế nào chỉ trong bao nhiêu nốt ấy, bao nhiêu chữ ấy, nhạc sỹ, thi nhân có thể chuyển được ý sâu là một điều không đơn giản. Đó là “nỗi khổ từng chữ, từng nốt” và cũng là yếu tố để quyết định tài năng!

    Bài đăng trước có đề cập đến chiều kích vô biên, vô lượng của chân lý, giờ đây xin được bàn thêm.

    Chân lý là gì? Là sự thật (truth). Sự thật thì có sự thật tuyệt đối (absolute truth) và sự thật tương đối (relative truth). Sự thật tuyệt đối là sự thật không bị chi phối bởi thời gian, vĩnh hằng, không thay đổi, không bị hoại diệt vì không có tuổi thọ. Sự thật tương đối là sự thật có tuổi thọ, chỉ tồn tại trong một thời gian nào đó (trăm năm, ngàn năm, triệu năm,…) rồi cũng phải chịu sự chi phối của định luật vô thường, sinh diệt, đổi thay, biến hoại.

    Ở đây, tuy không dùng tính từ “đúng” khi nói đến chân lý, nhưng ý nghĩa “không bao giờ sai” vì “không bao giờ mất” cũng đã được hàm chứa. (“Đúng sai” là câu chuyện dài của loài người chẳng bao giờ kết thúc; sự thăng hoa, sự tuột dốc, nước mắt, máu xương, đã đổ quá nhiều như sông, như núi cũng từ hai chữ “đúng sai” này.)

     

    Nếu thật ngắn gọn thì có thể nói thế này : Chân lý tuyệt đối là “cái-không-có-gì”, còn “chân lý tương đối” là “cái-có-gì”. “Cái không có gì” đó chính là “không gian” (space) và “cái có gì” là “vật thể” (objects). Vật thể là những gì có hình, có tướng, nổi lên, hiện ra, có thể biết được qua các giác quan, nhìn được, nghe được, ngửi được, nếm được, sờ mó được, suy nghĩ được. Còn không gian thì ẩn, chìm, vô hình, vô tướng, vượt ra ngoài sự hạn hẹp của ngôn từ nên chỉ có một cách duy nhất là “feel” thôi, cảm nhận trực tiếp bằng “trực giác” thôi.

    Chân lý còn có một khái niệm khác đồng nghĩa là “thực tại” (reality). Đời sống của chúng ta nếu chỉ “nghiêng” về “thực tại tương đối” (relative reality) thì chắc chắn sẽ “ngả” vì thiếu sự quân bình, thiếu sự nâng đỡ của “thực tại tuyệt đối” (absolute reality). Đây cũng là một thảm trạng chung cho nhân loại.

    Thế thì chân lý ở đâu? Câu trả lời là “Chân lý ở khắp mọi nơi” (God ,Truth, is everywhere), cũng giống như không gian vậy. Không gian bên ngoài là vũ trụ vô biên, dung chứa những tinh tú. Không gian bên trong là vũ trụ của tâm, dung chứa suy nghĩ, cảm xúc. Đại khái thế, không thể nói dài một sớm một chiều được, phải từ từ thôi.

    Dầu chúng ta không thể nói được về không gian “không có gì”, nhưng có thể mượn những hình ảnh của “có gì” để nói về nó. Trên mỗi trang giấy, có phải nằm phía dưới những con chữ là nền trắng? Trên hư không, có phải ẩn sau những đám mây là màu xanh của bầu trời? Phía dưới dòng xe cộ, có phải là sự bất động của con đường? Có phải bất cứ ở đâu và khi nào, bao trùm chúng ta cũng là không gian và sự tĩnh lặng (cặp này luôn đi chung với nhau, không tách rời)?

     Phải chăng khi biết chú ý thêm chiều “tĩnh” của “cái-không-có-gì” giữa những chiều “động” của “cái-có-gì”, cách nhìn đời, cách cảm nhận cuộc sống sẽ được trọn vẹn hơn, nhất là nghe lại nhạc Trịnh? “Đôi chân ta đi sông còn ở lại”, “Núi đứng quanh năm, đất muôn đời nằm, riêng ta rộn ràng”, “đóa hoa vàng mỏng manh cuối trời”, “ôi áo xưa lồng lộng đã xô dạt trời chiều’,…rất nhiều những bức tranh có sự qua lại, linh động, trọn vẹn “âm dương”,”động tĩnh” như thế này.

    4.

     

    Trong khi ta về lại nhớ ta đi
    Đi lên non cao đi về biển rộng
    Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng
    Ngọn gió hoang vu thổi suốt xuân thì.
    Hôm nay ta say ôm đời ngủ muộn
    Để sớm mai đây lại tiếc xuân thì.

     

    “Trong khi ta về lại nhớ ta đi” là một câu nhạc của Trịnh có độ rung chấn không nhỏ, ai cũng thấy mình trong đó, hình như tình huống nào cũng “vận dụng sáng tạo” được. Sự ngập ngừng trên mỗi bước chân, sự dùng dằng giữa “Đường trần đâu có gì” và “Tiếng nói nhu mì của quê quán tôi xưa”, sự giằng co giữa “chén rượu cay một đời tôi uống hoài” và “vầng trăng quê cũ”. Ra đi thì lúc nào cũng nghe vang vang “Trăng ơi trăng rất tệ mày đi nhớ chóng về”, lâu lâu về nhà thì nghe thì thầm “Lòng thật bình yên mà sao buồn thế”.

    “Trong khi ta về lại nhớ ta đi” cũng không khác “trong khi ta đi lại nhớ ta về”. Đây là tình cảnh “Đi về lận đận Tình đôi ngập ngừng” trong  Tiến Thoái Lưỡng Nan sau này.

    “Đi lên non cao đi về biển rộng”? Những ai có tu thiền đều thích câu này. Tập cho tâm an trú trong hiện tại nhưng “tâm viên ý mã” lúc nào cũng kéo ta “lên non cao” của quá khứ, “về biển rộng” của tương lai. “Vọng tưởng điên đảo” luôn luôn muốn đi đó đi đây “ta bà thế giới”, “ngoạn thủy du sơn”.

    Về mặt từ ngữ, “Đi lên non cao đi về biển rộng” cũng có thể cảm nhận theo hai cách. Cách thứ nhất có thể đặt “non cao” cùng hướng với “biển rộng” chỉ con đường hướng ra ngoài sơn thủy, theo cách này thì “về” cũng là “đi”. Cách thứ hai, bẻ ngoặt hướng đối lập thì “non cao” chỉ bên ngoài, còn “biển rộng” chỉ bên trong. Nếu so sánh thuần về độ lớn thì rõ ràng biển rộng lớn hơn, chiếm ba phần tư quả đất, “quê nhà” rộng như biển bao giờ cũng bao la thanh bình hơn gấp nhiều lần mây nắng non cao, và hai chữ “về” trong hai câu “trong khi ta về” và “đi về biển rộng” đều chỉ một chuyển động cùng chiều.

    Giữa hai chọn lựa “đi” “làm con sông cho tháng ngày trôi” và “về” “chốn thiên đường không có tháng ngày trôi” thì phần thắng luôn luôn cho nơi có tháng ngày. Dầu đôi khi thấy “Tôi như người bỗng lênh đênh giữa đời” (Ở trọ) nhưng “Dầu thật lệ rơi lòng không buồn mấy” (Bên đời hiu quạnh). Đây là một nét rất đẹp của Trịnh, đẹp vì thật, đẹp vì tin vào sự chọn lựa của mình, dầu biết rõ rằng trong quyết định “rong chơi giữa đời” vẫn không hoàn hảo. Nét ngay thẳng của “đại nhân” nằm chính chỗ này.

    “Đôi tay nhân gian chưa từng độ lượng”? “Nhân gian chưa từng độ lượng” thì ý rõ rồi, nhưng còn “đôi tay nhân gian”? “Đôi tay” của “nhân gian” hay lấy “đôi tay” mình để ôm cả “nhân gian”? Ý thứ nhất là một cách nhìn đời, ý thứ hai có trái tim mình trong cuộc đời đó.

    “Người ôm lấy muôn loài” (Ngẫu nhiên) hay “Sông có đôi tay, đôi tay thật dài, ôm quanh tình người” (Giọt lệ thiên thu) cũng đã từng có cái “ôm” theo ý thứ hai này.

    Trong phần trước đã bàn về cái hữu hạn, hữu lượng tương đối của “nhân gian”. Dù “đường trần không có gì” (Phôi pha) nhưng lại là chốn “trần gian có xót xa” (Đóa hoa vô thường), và chốn ấy rất “cần một trái tim” (Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui) và “cần có một tấm lòng” (Để gió cuốn đi).

     

    Người ôm lấy muôn loài
    Nằm trong tiếng bi ai
    (Ngẫu nhiên)

     

     Đường đời vốn thế, lấy “đôi tay” mình mà “ôm” thì giống như “ôm lòng đêm”, cuối cùng cũng “Ôi phù du từng tuổi xuân đã già đời người như gió qua” (Phôi pha) và “Đôi tay vẫn còn ôm mịt mùng” (Tình xót xa vừa) mà thôi. Làm sao có hạnh phúc thực sự giữa chốn “chưa từng độ lượng” ấy được.

    Và “suốt xuân thì” chỉ thấy “ngọn gió hoang vu” nhưng vẫn “yêu quá đời này”, dẫu rằng nhiều khi “dấu lệ”.

    Đoạn cuối này còn hai câu mang nỗi buồn cũng đậm, nhưng thôi, cứ để hương linh ông bây giờ “ôm thiên đường ngủ muộn”, “tiếc xuân thì” chỉ còn lúc vướng víu với nhân gian.

    5.

     

    Mây che trên đầu và nắng trên vai    
    Đôi chân ta đi sông còn ở lại
    Con Tinh yêu thương vô tình chợt gọi  
    Lại thấy trong ta hiện bóng con người.

    Qua bốn câu nhạc này, chúng ta có thể thấy được lý do tại sao đưa đến sự giằng co giữa hai lực kéo Đi và Về trên con đường “lênh đênh giữa đời” của Trịnh. Là một con người bình thường vì trái tim cũng đập theo nhịp đời như bao người, nhưng cũng khác thường nhờ sức nâng của đôi cánh tâm linh đã đẩy ông bay lên khỏi một phần những tầm thường trong vòng tục lụy thế gian.

    Có người nói rằng nếu Trịnh Công Sơn không bị níu lại bởi sợi dây ràng buộc của đời thường thì rất có thể Ông sẽ trở thành một thánh thi sĩ như Tagore của Ấn Độ hay Rumi của Ba Tư. Hai nhà thơ rất được tôn kính, những lời minh triết xưa của họ thường được nhắc đến trong cộng đồng tâm linh trên toàn thế giới, đặc biệt ở phương Tây.

    Hơn ai hết, Trịnh cũng biết được giới hạn của mình, điều này có lẽ không khó nhận qua những lời ca Ông viết “Đởi tôi trót dại tự làm khô héo tôi đây” (Chiếc là thu phai). Và cũng chính biết rõ mình như thế đã làm tăng thêm giá trị của ông: một người sống giữa đời, dù có buồn có khổ, nhưng vẫn sống hết lòng bằng trái tim đạo, đầy thương yêu.

    “Mây che trên đầu và nắng trên vai”? Ánh sáng “chân như” chiếu “rọi suốt trăm năm” nhưng chỉ xuống được phần vai, phần đầu vì bị mây che không tới được. Hệ lụy nhân gian làm ánh sáng không trọn vẹn, toàn phần. Trong kinh Phật, hình ảnh “trăng thoát khỏi mây” thường dùng để nói đến kinh nghiệm chứng ngộ được sự thật, thấy được “bản lai diện mục” (bộ mặt xưa nay) của chính mình. Bộ mặt này qua ca từ của Trịnh là “quê quán xưa”, “vầng nhật nguyệt”, v.v.. mà chúng ta đã từng nói đến.

     

    “Đôi chân ta đi sông còn ở lại”? Dòng sông xuất hiện rất nhiều trong di sản ca khúc của Ông, mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Đẹp và lạ như tranh trong “con sông là thuyền mây xa là buồm”, “Những dòng sông nối đôi tay liền với biển khơi” (Bốn mùa thay lá), trầm ngâm triết lý như “Ngồi bên dòng sông nhớ đời mình, một trăm năm sau mãi ngủ yên” (Lời của dòng sông)… Nhưng trong Một Cõi Đi Về, với một chủ đề xuyên suốt chặt chẽ, thì có lẽ ý nghĩa “cội nguồn” là hợp lý nhất.

    Về chiều sâu tâm thức, phải chăng “đôi chân ta đi” là “động”, vọng tưởng, vọng tâm … “sông còn ở lại” là “tĩnh”, là cội nguồn, là chân tâm, minh tâm…Có “cái biết” sáng tỏ, im lắng đang “thấy” những bước chân đi? Có thể “hát chế” thành “Tâm kia (giả) đang đi, Tâm này (thực) ở lại” được không?

    Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng có một câu nói về ý này nhưng dùng hình ảnh “mái nhà” thay vì “sông”:

    "Rứt bỏ mái nhà để ra đi cũng như phụ rẫy một tình yêu. Mái nhà ở lại hoàn toàn vô tội. Mái nhà vẫn chờ cửa để đón người trở về nhưng người ra đi thì không bao giờ kéo được mái nhà về với mình nữa. Có được một mái nhà riêng trong lúc sống là một hạnh phúc. Nhất là mái nhà ấy là hình ảnh của chính mình."

            Mái nhà cũng như sông vẫn ở lại đó, êm đềm yên lặng, chờ đợi “trăng lãng du” trở về mà sao đôi chân mãi cứ ra đi?

    Lý do đây: Con tinh yêu thương! Dù Trịnh có lần giải thích lý do ông dùng chữ “yêu tinh” là vì ở Huế, người thân hay mắng yêu mấy cô gái nhỏ, xinh đẹp, nghịch ngợm là “đồ yêu tinh”. Nhưng cách giải thích này chỉ hé mở một phần, phần lớn còn lại chính là Ông muốn ám chỉ “tình yêu nam nữ” hay rộng hơn là dục vọng hay khát ái của con người. Điều này cũng đã được hát lên trong Giọt Lệ Thiên Thu: “Nắng quái yêu ma, lung linh thành trì, lung linh cửa nhà”. Yêu ma hay yêu tinh thì cũng là “yêu”. Đang “rong chơi giữa đời”, quanh mình toàn là người bình thường, yêu xuống yêu lên, nếu nói trắng ra, sao tránh khỏi phiền lòng thiên hạ! Hơn nữa, mình đâu phải thầy tu mà “hạ giá” điều mà mọi người xem trọng, ngay cả mình cũng chưa thoát được ngọt đắng của nó kia mà.

    Tình yêu vẫy gọi, tình bạn, tình đời, đủ thứ tình. Dù biết “Sống có đôi chân, đôi chân mệt nhoài, một đời tới lui” (Giọt lệ thiên thu) nhưng bên tai vẫn có tiếng loáng thoáng “chợt gọi vô tình” của “con người hiện bóng”. Lại ra đi, chán. Lại đi về, buồn.  

    6.

    Đường chạy vòng quanh, một vòng tiều tụy 

     

     “Vòng quanh” “tiều tụy” cũng giống như “loanh quanh mỏi mệt”. Thử thay đổi một chút thành “chạy quanh đường vòng”, nghe cũng hay hay. “Chạy quanh”, tốc độ nhanh hơn, mạnh hơn “đi đâu loanh quanh”. “Tiều tụy” cho ta cảm giác héo, hốc hác hơn “mỏi mệt” rất nhiều, mỏi mệt chỉ đổ mồ hôi còn tiều tụy rất rõ sự hết “pin”, mỏi mòn nhựa sống.

     “Đường vòng” gợi đến sự cong cong, một đường cong khép kín, tịt lối thoát, bí lối ra. “Kiến bò quanh đĩa” hay “cái vòng danh lợi cong cong, kẻ hòng thoát khỏi người mong bước vào” là những câu rất Việt không lạ. Bi kịch của thân phận người bị bao vây bởi “cái vòng” này, phải nói là “mê hồn trận” cho thêm phần kịch tính. Danh lợi ở đây chỉ là một phần ý nghĩa của “cỏ non”, “cỏ lạ” trong bài hát này.

    Xin nói thêm tí về danh lợi , sẽ bàn tiếp “cỏ” sau. Nghe hai từ này, thông thường ta hay nghĩ đến sự thăng quan tiến chức, bổng cao lộc lớn, chức trọng quyền cao Nhưng trong thực tế, nếu quay ngược nhìn kỹ lại mình, sẽ cảm được ý nghĩa rộng gần hơn của câu này, cũng dành cho mọi chúng ta. Danh là tiếng thơm, tiếng tốt, ai chẳng thích được khen. Lợi liên quan đến tiền, ai chẳng muốn mình có tiền, càng nhiều càng tốt, lòng ham muốn chẳng bao giờ khiêm tốn cả. Và như thế, cứ đi loanh quanh, cứ chạy vòng vòng, miệt mài đuổi bắt, khó dừng nên không mệt mỏi, không tiều tụy mới là chuyện đáng ngạc nhiên.

    Trong triết lý Phật Giáo, vòng luân hồi sanh tử được giải thích bằng Thập Nhị Nhân Duyên, một “đường vòng” mà trong đó chúng sanh vẫn “chạy”, chạy tới chạy lui, chạy lên chạy xuống. Vòng này khởi đầu bằng Vô Minh, sau đó là Hành, Thức, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, v.v.. Bởi Vô Minh nên bị Tham Sân Si dẫn dắt, lăn trôi, chìm đắm mãi giữa “tiều tụy” của khổ đau.

    Theo ý này thì chắc không “quá đáng” khi hát “chế” hai câu đầu: “Bao nhiêu kiếp rồi còn mãi ra đi Lăn trôi loanh quanh luân hồi mỏi mệt”.

    Và muốn thoát ra khỏi “đường vòng” này cần phải thấy được Minh, ánh sáng của “đôi vầng nhật nguyệt” (Trong tiếng Hán, khi ghép Nhật và Nguyệt sẽ thành Minh).

    Một bờ cỏ non một bờ mộng mị ngày qua.

     

    “Cỏ” cũng là một từ đẹp trong vườn Trịnh, chỉ phận người như “Ta thấy em trong tiền kiếp như cọng buồn cỏ khô” (Rừng xưa đã khép), “Sống chết mong manh như thân cỏ hèn mọc đầy núi non” (Giọt lệ thiên thu). Ý này cũng có trong Kinh Thánh: “Đời sống con người chẳng qua như cỏ, như bông hoa nở giữa cánh đồng, một cơn gió thoảng đủ làm nó mất đi, nơi nó mọc sẽ không còn mang vết tích”.

     Nhưng trong Một Cõi Đi Về, ý nghĩa của “cỏ non” chỉ “cám dỗ của thế gian” nếu nói theo Ki-tô, hay “quyến rũ của dục lạc” nếu nói theo Phật thì hợp lý hơn vì nó giải thích được lý do tại sao lại “đi quanh, chạy vòng” để phải bị đuối.

    Cám dỗ gì? Quyến rũ gì? Mắt đi tìm hình ảnh đẹp, tai đi tìm tiếng hay, mũi đi tìm mùi thơm, lưỡi đi tìm vị ngon, thân đi tìm sự xúc chạm êm ái, ý đi tìm suy tưởng mới. Mà phải “non”, “tươi”, “lạ” mới thỏa mãn hài lòng. Có bao nhiêu người hiểu được rằng đây chỉ là “mộng mị” phù du ? Ngày hôm qua đẹp, hay, thơm, ngon, mới lạ, êm ái biết bao, sao hôm nay tất cả bay đâu mất rồi. Lại khát nữa, lại đi tiếp, laị chạy tiếp. Và như thế, ngày qua… ngày qua…

    Còn “bờ”, hãy nghe lại câu nói của Trịnh.

     

    "Bờ bến của một cuộc tình cũng không phải hẹp đâu. Có biết bao nhiêu kẻ đã bị dìm chết giữa giòng để mãi mãi không đến được bờ bên kia. Kẻ đã đến được bờ bên kia rồi, khi quay nhìn lại sẽ thấy rất rõ, sẽ nhận thức được mọi thất vọng, khổ đau đã qua đều là giả tạo, phù phiếm. Và bỗng nhiên một nụ cười thanh thản bỗng nở ra. Một khi đã qua được bờ bên kia rồi tất cả sẽ thấy lòng mình tràn ngập một nỗi hân hoan lạ thường và từ đó cái nguồn cội của khổ đau không còn lừa gạt ta được nữa..."

    Câu này ý tứ sâu, không đi vào ở đây, trích dẫn để hình dung rõ hơn triết lý Phật về bờ mê, bến giác đã ảnh hưởng thế nào đến tư tưởng của Trịnh thôi. Như vậy, là có bờ bên này và bờ bên kia. Bến bờ này cũng có mặt trong nhiều câu hát: “Như bờ xa nước cạn đã chìm vào cơn mưa” (Tình nhớ) hay “Bờ xa cỏ dại vô thường nhớ em” (Em đi bỏ lại con đường)…Bờ xa bên kia thì không mộng mị như bờ gần bên này, bờ bên kia là bờ giác, bờ bên này là bờ mê. Bờ bên này cỏ non nhiều nên giả tạo, phù phiếm, bờ bên kia chỉ có nụ cười thanh thản và nỗi hân hoan

    8

    Từng lời tà dương là lời mộ địa   
    Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe.

     

    Hai câu này là một ý với “Dưới vành nôi mọc từng nấm mộ” (Cỏ xót xa đưa) hay rõ hơn là “Cụm rừng nào lá xác xơ cây, từ vực sâu nghe lời mời đã dậy, ôi cát bụi phận này ,vết mực nào xóa bỏ không hay” (Cát bụi). Đây là lời cảnh báo của vị thiên sứ hầu như chẳng ai muốn nghe dù trước sau cũng phải đối diện : Thần Chết.

    Tà dương là ánh mặt trời sắp lặn, mộ địa là nấm mồ. Tà dương mộ địa, từ Hán Việt, dùng trong câu này quả rất hay, Ông là người yêu ca dao, yêu tiếng Việt, chúng ta khi nghe Trịnh đều yêu thêm tiếng nước mình. Thỉnh thoảng trong túi có móc ra vài từ không thuần Việt nhưng đặt chữ nào xuống là đắc chữ đó, như “tiến thoái lưỡng man”. Không phải làm khó người nghe mà chỉ với ý làm tăng thêm độ sâu của bài hát.

    Nếu “nắng vàng” xuất hiện lung linh buồn, thanh thoát nhẹ thì  “tà dương” gợi lên một không gian cổ điển u trầm, làm ta không thể không nhớ đến “Trải bao thỏ lặn ác tà” và “Bóng tà như giục cơn buồn” của Nguyễn Du, “Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà” của Bà Huyện Thanh Quan, hay độc đáo linh động của Tản Đà với "Cỏ vàng cây đỏ bóng tà tà dương". Lời tà dương của Trịnh nặng trầm hơn vì bên cạnh là âm hưởng lạnh lạnh của mộ địa.

    “Từng lời bể sông nghe ra từ độ suối khe”? Lại gặp lại dòng sông, lần này tiếng hát của sông vang vọng lên, một bên là biển, một bên suối khe, đây là hình ảnh “Những dòng sông nối đôi tay liền với biển khơi” trong Bốn Mùa Thay Lá. Từ nơi bắt đầu của một dòng chảy đầu nguồn là khe, hòa vào suối, nhập vào sông, cuối cùng ra biển cả. Một sự khởi đầu của “vành nôi” chào đời và kết thúc của “nấm mộ” ngủ yên.

    Nếu ví đời người như một cuốn sách 36.000 trang, mỗi trang được lật qua là thêm một trang tiến gần về chương cuối. Cũng vậy, mỗi lần hoàng hôn rơi….

     

     

    Lời nào của cây, lời nào cỏ lạ   
    Một chiều ngồi say một đời thật nhẹ, ngày qua.
    Vừa tàn mùa xuân, rồi tàn mùa hạ  
    Một ngày đầu thu nghe chân ngựa về chốn xa.

    “Cây” là cây của sự sống (tree of life) như đã từng gặp trong Cỏ Xót Xa Đưa: “Trên đời người trổ nhánh hoang vu, trên ngày đi mọc cành lá mù”. Cây mang tính gốc rễ vững chắc, từ đó cành, nhánh, lá vươn ra. Cành, nhánh có thể là những liên hệ bên ngoài của ta trong cuộc đời, cũng có thể là suy nghĩ, cảm xúc bên trong nội tâm.

    Nhưng nếu theo ý này thì không chặt lắm khi “cây” đi cùng với “cỏ lạ”. Cỏ lạ chỉ “lạc thú trần gian” khi ta đi loanh quanh, chạy vòng quanh như đã nói trong bài trước thì “cây” phải mang nghĩa ngược lại thì ý mới sống động. Theo hướng tâm linh này thì cây giác ngộ (tree of enlightenment) hợp lý hơn vì bản thân cây này cũng đã hàm chứa ý nghĩa “đôi vầng nhật nguyệt” trong sáng, có hoan lạc, bình an thật sự, chứ không giả tạm, nhất thời như “lạc thú” của “cỏ lạ” hời hợt, chóng tàn.

    “Một chiều ngồi say”? Say "cây" hay say "cỏ"? Câu này là một cách nói khác của “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”, say vì yêu bông hoa, nụ cười, yêu nắng đầy, mưa tới … (chắc là cũng có rượu). Yêu ngất ngây nhẹ nhàng tất nhiên sẽ hưởng được nguồn vui của “một đời thật nhẹ”, cứ “ngồi thong dong trao đến mọi loài chút tình tôi”. Nếu không biết "say" chắc chắn sẽ là "một đời thật nặng... ngày qua"

    Thời gian trôi, tháng ngày trôi, mặt trời lên rồi xuống, nắng đến rồi phai, tàn xuân, tàn hạ. Rồi sẽ đến khúc cuối đời, nghe tiếng lộc cộc chậm buồn tiếng chân ngựa về để đón đưa. Một lần nữa hình ảnh “ngựa” lại xuất hiện, không xa vắng như “nhớ ngựa thồ ngoại ô xa vắng” trong Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên, không say buồn như “Một ngày như mọi ngày, giọng buồn lên tiếp nối, một ngày như mọi ngày, xe ngựa về ngủ say” trong Một Ngày Như Mọi Ngày.

    “Chân ngựa về chốn xa” là văng vẳng tiếng của chuyến xe thổ mộ đưa quan tài về đất trả lại cho cát bụi. Thổ là đất, mộ là mồ, thổ mộ là nấm mồ đất. Mộ địa âm buồn bên ánh tà dương.

     

     Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
    Rọi suốt trăm năm một cõi đi về

    Một lần nữa, hãy đọc lại những tâm sự Trịnh đã để lại “Có những ngày tháng tôi đã bỏ mình vào một cõi tịch lặng vô ngôn để thử nhìn lại rõ mình hơn, nhưng vô vọng”. Ông đã thao thức nhiều trên con đường tìm lại “bản chất chân thực” (real nature) của mình. Đó cũng là thao thức chung cho những ai muốn thoát khỏi cảnh phù du, tạm bợ của hạn hẹp nhân gian.

    Ông biết rằng có một cái gì cao cả hơn, an bình hơn nằm sâu bên dưới tâm thức bình thường, tĩnh lặng tựa đáy đai dương bao la:

    “Và tôi đã tìm đến với thế giới của im lặng và hội họa. Ở đây, tôi đã bắt gặp một mảng đời của mình bấy lâu nay vẫn còn bị che dấu. Chính ở trong cõi màu sắc này, tôi đã chạm vào được cái chìa khóa để mở dần những cánh cửa vô thức của bản thân mình.”

     “Mảng đời của mình vẫn còn bị che dấu” được gọi là “một cõi đi về” mà ông đang khát khao tìm kiếm. Chạm được “chìa khóa”, thấp thoáng “cánh cửa” nhưng chiều sâu “vô thức của bản thân” thì “bó tay”, “vô vọng”. Cánh cửa “vô lượng, vô biên” hé chút chợt sầm đóng lại, rồi lại tiếp tục tới lui với đôi cánh là đà bay lượn giữa đời lênh đênh.

    Dù vậy, ông vẫn tự nhủ “Hãy biết đi tìm, nhẫn nhục tìm kiếm sẽ có ngày thấy được. Dù ở đâu. Từ trong một hạt bụi đến cõi trời bao la. Từ cái sờ mó được đến cõi vô hình”. Nghe câu này, chúng ta không thể không nhớ một câu trong Kinh Thánh “hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho” (Matthew 7:7).

    Phải chăng “cõi đi về” mà Trịnh muốn tìm, muốn hỏi, muốn gõ ấy chính là “cõi trời bao la” và “cõi vô hình” như ông đã nói? Những tự sự sâu kín “tự mình biết riêng mình Và ta biết riêng ta” ám ảnh Trịnh suốt một đời về “nguồn cội”. Những “giọt lệ long lanh” cùng “nụ cười đắng ngọt” đã làm rung động chúng ta qua những câu chữ, nét nhạc. Lúc bay bổng vui tươi. Lúc trầm lắng sâu buồn.

     

    Nghìn dâu cố quận muôn trùng nhớ em
    (Em đi bỏ lại con đường)
    Rồi một lần kia khăn gói đi xa
    Tưởng rằng được quên thương nhớ nơi quê nhà
    (Bên đời hiu quạnh)

     

    Tấm lòng hướng về “vầng nhật nguyệt” mà đôi khi được gọi là  “bờ xa” cũng lung linh trong nhiều tình khúc: “Ôi áo xưa lồng lộng, đã xô dạt trời chiều, như bờ xa nước cạn, đã chìm vào cơn mưa” (Tình nhớ). Chúng ta cũng hình dung thấy “bờ xa bên kia” đôi khi nhạt mờ khuất bóng. Sương khói cuộc đời không thể đưa ông qua bờ với nước cạn lòng sông.

    SOURCE: TVHS

    Xem thêm bài thuyết giảng của TT. Thích Bửu Chánh:

     

    Read more »
  • VĂN KHUYÊN PHÁT TÂM BỒ-ĐỀ

    VĂN KHUYÊN PHÁT TÂM BỒ-ĐỀ  
    (Khuyến phát Bồ-đề tâm văn)
    Đại sư Tỉnh Am
    Nguyễn Minh Tiến Việt dịch

    Kẻ phàm tăng ngu muội kém cỏi là Thật Hiền, nay khóc chảy máu mắt mà cúi lạy, đau xót có lời dâng lên đại chúng hiện tiền, cùng hết thảy thiện nam tín nữ. Kính mong quý vị mở lòng từ bi, có chút lưu tâm lắng nghe xét kỹ.

    Thường nghe rằng, cửa ngõ vào Chánh đạo, sự phát tâm quan trọng nhất; việc gấp trên đường tu, không gì hơn lập nguyện. Nguyện đã lập thành thì có thể cứu độ chúng sinh, tâm đã phát khởi thì quả Phật ắt thành tựu. Ví như không phát tâm rộng lớn, lập nguyện kiên cố, ắt là trải qua vô số kiếp vẫn còn nguyên trong chốn luân hồi. Cho dù có tu hành, hết thảy chỉ là uổng công khổ nhọc. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Kẻ tu các pháp lành mà quên mất tâm Bồ-đề, đó gọi là theo nghiệp của ma.” [Phát tâm rồi] quên mất còn như thế, huống chi là chưa phát tâm? Cho nên biết rằng, muốn học theo Chánh pháp Như Lai, trước hết phải phát khởi đầy đủ tâm nguyện Bồ Tát, không thể chậm trễ.

    Nhưng tâm nguyện có khác biệt, tướng trạng rất nhiều, nếu không chỉ rõ biết theo khuynh hướng nào? Nay xin vì đại chúng mà nói qua sơ lược, sự phát tâm có tám khuynh hướng khác biệt là: tà vạy, chính đáng, chân thật, dối trá, rộng lớn, nhỏ hẹp, thiên lệch và viên mãn.      

    Phát tâm như thế nào gọi là tà vạy? Thế nào là chính đáng? Thế nào là chân thật? Thế nào là dối trá? Thế nào là rộng lớn? Thế nào là nhỏ hẹp? Thế nào là thiên lệch? Thế nào là viên mãn?

    Có những kẻ tu hành không cứu xét tự tâm, chỉ biết hướng theo ngoại cảnh, như mong cầu lợi dưỡng hoặc tham muốn danh tiếng, chạy theo khoái lạc nhục dục hiện tại hoặc mong cầu quả báo tương lai. Phát tâm như thế gọi là tà vạy.

    Không cầu lợi dưỡng, danh tiếng, cũng không tham dục lạc, quả báo, chỉ vì muốn thoát ly sinh tử, thành tựu Bồ-đề. Phát tâm như thế gọi là chính đáng.

    Mỗi một niệm đều ngưỡng cầu Phật đạo, mỗi một ý tưởng trong tâm đều thương xót giáo hóa chúng sinh. Dù nghe rằng Phật đạo thăm thẳm dài lâu, cũng không thối tâm khiếp sợ; nhìn thấy chúng sinh khó hóa độ, cũng không sinh lòng chán nản mỏi mệt. Như trèo núi cao chót vót, quyết lên tận đỉnh; như leo tháp lớn sừng sững, quyết đến tột cùng. Phát tâm như thế gọi là chân thật.

    Tạo tội rồi không sám hối, mắc lỗi không chịu dứt trừ, bên ngoài ra dáng trong sạch, trong lòng đầy dẫy nhớp nhơ. Trước khởi tâm chuyên cần, sau hóa ra lười nhác. Tuy có chút lòng tốt, phần nhiều lại bị danh lợi xen vào. Dù có tu pháp lành, lại bị tội lỗi nghiệp xấu làm cho ô nhiễm. Phát tâm như thế gọi là dối trá.

    Pháp giới chúng sinh chưa cùng tận thì nguyện vẫn còn, đạo Bồ-đề chưa thành tựu thì nguyện chưa trọn. Phát tâm như thế gọi là lớn lao.

    Quán xét ba cõi như tù ngục, vòng sinh tử như kẻ oán thù, chỉ muốn mau mau tự độ, không dám nghĩ đến việc cứu độ muôn người. Phát tâm như thế gọi là nhỏ hẹp.

    Nếu ngoài tâm này thấy có chúng sanh phải nguyện cứu độ, thấy có Phật đạo phải nguyện tựu thành, công khó tu tập không quên, tri kiến tích tụ chẳng bỏ. Phát tâm như thế gọi là thiên lệch.

    Nếu biết tự tánh này là chúng sanh nên nguyện độ thoát; tự tánh này là Phật đạo nên nguyện tựu thành. Không thấy có bất kỳ pháp nào lìa khỏi tâm này mà tự hiện hữu. Dùng tâm rỗng rang như hư không để phát đại nguyện như hư không, tu tập công hạnh như hư không, chứng đắc quả vị như hư không, nhưng rốt cùng cũng không có tướng trạng hư không có thể nắm bắt. Phát tâm như thế gọi là viên mãn.

    Biết rõ được tám sự khác biệt như trên rồi thì biết phán xét; biết phán xét thì biết chọn lựa lấy bỏ; biết chọn lựa lấy bỏ thì có thể phát tâm theo cách đúng đắn.  

    Thế nào là phán xét? Đó là nói việc tự phán xét xem chỗ  phát tâm của mình rơi vào khuynh hướng nào trong tám điều nêu trên. Là tà vạy hay chính đáng? Là chân thật hay dối trá? Là lớn lao hay nhỏ hẹp? Là thiên lệch hay viên mãn?

    Thế nào là chọn lựa lấy bỏ? Đó là nói phải bỏ đi những khuynh hướng tà vạy, dối trá, nhỏ hẹp, thiên lệch, mà chọn lấy những khuynh hướng chính đáng, chân thật, lớn lao, viên mãn.

    Phát tâm được như thế mới có thể gọi là phát tâm Bồ-đề một cách chân chánh.

    Tâm Bồ-đề này đứng đầu tất cả pháp lành, phải có nhân duyên mới có thể phát khởi. Nay sẽ nói về nhân duyên, sơ lược có mười loại.

    Những gì là mười nhân duyên phát tâm Bồ-đề? Thứ nhất, vì nghĩ đến ơn Phật sâu nặng nên phát tâm; thứ hai, vì nghĩ đến công ơn cha mẹ nên phát tâm; thứ ba, vì nghĩ đến ơn thầy nên phát tâm; thứ tư, vì nghĩ đến ơn thí chủ cúng dường nên phát tâm; thứ năm, vì nghĩ đến ơn chúng sinh nên phát tâm; thứ sáu, vì nghĩ đến nỗi khổ sinh tử nên phát tâm; thứ bảy, vì tôn trọng tự tánh linh giác nên phát tâm; thứ tám, vì sám hối nghiệp chướng nên phát tâm; thứ chín, vì cầu sinh Tịnh độ nên phát tâm; thứ mười, vì khiến cho Chánh pháp được trụ thế lâu dài nên phát tâm.

    Thế nào là nghĩ đến ơn Phật sâu nặng? Đó là nói việc đức Như Lai Thích-ca của chúng ta từ thuở mới vừa phát tâm, vì chúng ta mà hành đạo Bồ Tát, trải qua vô số kiếp chịu mọi khổ não. Khi ta tạo nghiệp xấu ác thì Phật khởi tâm thương xót, dùng phương tiện giáo hóa, nhưng ta lại ngu si không chịu tin nhận. Ta phải đọa vào địa ngục, Phật lại đau lòng thương xót, muốn thay ta chịu khổ, nhưng vì ta tạo nghiệp nặng nề nên không thể cứu vớt. Ta sinh làm người, Phật dùng phương tiện khiến ta biết gieo trồng căn lành. Đời này sang đời khác, tâm Phật vẫn luôn hiện hữu cùng ta, chưa từng tạm rời. Thuở Phật vừa xuất thế, ta hãy còn chìm sâu trong biển nghiệp, nay ta được làm người thì Phật đã nhập diệt. Ta do tội gì phải sinh thời mạt pháp không có Phật? Ta nhờ phúc gì được dự hàng xuất gia? Vì nghiệp chướng gì không được nhìn thấy kim thân Phật? Do may mắn gì mà tự mình được chiêm bái xá-lợi Phật?

    Lại suy xét rằng, ví như đời trước không gieo trồng căn lành, nay làm sao được nghe pháp Phật? Nếu không được nghe pháp Phật, làm sao biết mình thường chịu ơn Phật? Ân đức như thế, núi cao gò lớn cũng chẳng sánh bằng. Nếu tự mình không phát tâm rộng lớn, hành đạo Bồ Tát, xây dựng phát triển Phật pháp, cứu giúp hóa độ chúng sinh, thì cho dù có tan xương nát thịt cũng không thể báo đền.

    Đó là nhân duyên thứ nhất để phát tâm Bồ-đề.

    Thế nào là nghĩ đến ơn cha mẹ? Mỗi khi nghĩ đến cha mẹ thì buồn thương khôn nguôi, bởi sinh ta ra mà phải chịu khổ nhọc trăm bề. Mười tháng mang thai, ba năm bú mớm; đêm bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn, ngày đắng cay mẹ nuốt, ngon ngọt phần con, nhờ vậy nay ta mới được thành người. Chỉ mong ta kế tục nghiệp nhà, nối đường thờ tự. Nay ta chọn đường xuất gia, lạm xưng đệ tử Phật, hổ thẹn nhận danh sa-môn. Món ngon ngọt chẳng dâng cha mẹ, ngày kỵ giỗ không cúng tổ tiên. Cha mẹ còn sống đã không chu toàn nuôi dưỡng, chết đi không dẫn dắt được theo đường lành. Xét việc đời là mất mát lớn lao, xét việc đạo còn chưa thật hữu ích. Ví như đôi đường đều thất bại thì tội lỗi nặng nề thật khó tránh.

    Lại suy xét rằng, chỉ có một cách duy nhất là đời đời kiếp kiếp thường hành Phật đạo, rộng độ chúng sinh mười phương ba đời. Được như thế thì không chỉ cha mẹ trong một đời, mà cả cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp cũng đều được cứu độ; không chỉ riêng cha mẹ của một người, mà cha mẹ của tất cả mọi người cũng đều được siêu thoát.

    Đó là nhân duyên thứ hai để phát tâm Bồ-đề. 

    Thế nào là nghĩ đến ơn thầy? Cha mẹ tuy có thể sinh ta ra và nuôi dưỡng thân thể, nhưng nếu không có các bậc thầy dạy ở đời, hẳn ta không biết đến lễ nghĩa; nếu không có các bậc thầy dạy trong đạo, hẳn ta không hiểu được pháp Phật. Không biết lễ nghĩa thì cũng giống như súc vật, không hiểu pháp Phật thì khác chi người thế tục? Nay ta cũng biết được đôi điều lễ nghĩa, hiểu được sơ lược về pháp Phật, trên mình được khoác cà-sa, thân tâm thấm nhuần giới hạnh. Được như thế đều nhờ ơn thầy dạy.

    Nếu phát tâm cầu quả vị nhỏ nhoi, chỉ có thể lợi ích riêng mình. Nay chọn theo Đại thừa, nguyện lớn lao lợi khắp muôn người, thì các bậc thầy dạy dù ở đời hay trong đạo cũng đều sẽ được phần lợi ích.

    Đó là nhân duyên thứ ba để phát tâm Bồ-đề. 

    Thế nào là nghĩ đến ơn thí chủ cúng dường? Đó là nói việc chúng ta hôm nay, mọi thứ cần dùng hằng ngày đều không phải tự sức mình có được. Cháo cơm ngày hai bữa, y phục đủ bốn mùa, khi bệnh tật cần đến, lúc sinh hoạt thường ngày, hết thảy mọi chi phí đều có được từ sức lực người khác, mang đến cho ta tiêu dùng.

    Người khác phải đem hết sức lực tự thân cày cấy, vẫn chưa kiếm đủ miếng ăn; còn ta ngồi không được ăn, vẫn chưa vừa ý. Người khác thì dệt dệt đan đan, vẫn chưa hết khó khăn thiếu thốn; còn ta ngồi không mà y phục có thừa, không biết quý tiếc. Người khác thì nhà tranh vách lá, rối rắm suốt đời; còn ta thì nhà to sân rộng, nhàn tĩnh quanh năm.

    Người khác cực nhọc để ta được an nhàn, có thể an lòng được sao? Lấy nguồn lợi của người khác để trau chuốt thân mình, như thế có hợp lý chăng?

    Cho nên, nếu tự thân mình không thể vận dụng đủ bi lẫn trí, không tự trang nghiêm cả phúc lẫn tuệ, khiến cho tất cả đàn-na tín thí đều được nhờ ơn, hết thảy chúng sinh đều được lợi ích, thì cho dù hạt gạo sợi tơ, nhỏ nhặt đến thế cũng phải đền trả đủ, mà quả báo xấu ác cũng khó lòng tránh khỏi.

    Đó là nhân duyên thứ tư để phát tâm Bồ-đề. 

    Thế nào là nghĩ đến ơn chúng sinh? Đó là nói việc ta và chúng sinh từ vô số kiếp đến nay, đời này kiếp nọ vẫn thường thay đổi làm cha mẹ của nhau, nên có ơn với nhau. Nay tuy sang đời khác thì mê mờ hôn ám, chẳng còn biết nhau, nhưng theo lý mà suy, thì lẽ nào có ơn lại không lo báo đáp?

    Ngày nay tuy thấy những con vật mang lông đội sừng, sao biết được trước đây ta chẳng từng làm con của chúng? Ngày nay tuy thấy những loài côn trùng nhỏ nhít, sao biết được trước đây chẳng từng là cha mẹ của ta? Thường thấy trẻ thơ, nếu phải xa cách cha mẹ thì lớn lên không nhớ được dung mạo, huống chi là cha mẹ trong đời trước, nay tất nhiên không thể nhớ được. Ví như cha mẹ đời trước giờ đang gào khóc dưới địa ngục, lăn lộn trong cảnh giới ngạ quỷ, khổ sở đớn đau ai biết được? Đói khát thiếu thốn ai bảo cùng ta? Dù ta không thấy nghe hay biết, tất nhiên họ vẫn đang mong cầu có người cứu giúp. Chỉ Kinh văn mới có thể kể rõ sự này, chỉ đức Phật mới có thể dạy ta việc ấy, còn những kẻ tà kiến làm sao biết được?

    Cho nên, Bồ Tát quán chiếu nơi trùng kiến, thấy tất cả đều là cha mẹ trong quá khứ, đều là chư Phật trong tương lai, thường nghĩ việc làm lợi ích, báo đáp ân đức.

    Đó là nhân duyên thứ năm để phát tâm Bồ-đề.

    Thế nào là nghĩ đến nỗi khổ sinh tử? Đó là nói ta cùng với hết thảy chúng sinh, từ vô số kiếp đến nay thường ở trong sinh tử, chưa từng được giải thoát. Khi cõi nhân gian, lúc miền thiên thượng, khi ở cõi này, lúc sang phương khác, sống chết vạn mối, thăng trầm thoáng chốc. Vừa sinh cõi trời thoắt đã làm người; rồi thoắt lại đã vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Cửa địa ngục sớm ra tối vào, hang sắt tạm rời lại đến. Lên núi đao thì toàn thân chẳng còn một chút da, leo cây phủ kiếm thì khắp người đều chịu cắt xẻo. Hòn sắt nóng chẳng trừ cơn đói, nuốt vào rồi ruột gan chín bấy. Nước đồng sôi không tiêu cơn khát, uống vào rồi xương thịt nát nhừ. Cưa sắc cưa lìa thân thể, vừa đứt ra đã dính liền trở lại; gió quái lạ thổi thoáng qua người, vừa chết đi đã sống lại rồi. Lửa dữ đầy thành, vang tiếng kêu gào thảm thiết; vạc lớn nấu đun, chỉ nghe âm thanh thống khổ bên tai. Băng giá vừa ngưng, thân xanh mét như sen xanh bó nhụy, máu thịt rã rời, thể bầm đỏ như ngó sen dập nát. Sống chết trong một đêm, địa ngục trải qua vạn lượt; đau đớn thống khổ mỗi ngày, so với nhân gian hơn trăm năm tuổi. Đã bao lần khiến ngục tốt phải ra sức hành hình mệt nhọc, mà nào có ai chịu tin lời Diêm chúa răn đe? Lúc thọ hình mới biết là khổ, tuy hối hận làm sao quay lại? Thoát ra rồi quên sạch sành sanh, bao nghiệp ác vẫn làm như cũ!

    Dùng roi quất lừa chảy máu, ai biết mình đang đánh mẹ? Dắt lợn vào lò mổ, nào hay ta sắp giết cha? Ăn thịt con không biết, Văn vương xưa còn như thế. Nhai nuốt cha mẹ chẳng hay, muôn loài đều vậy cả. Ngày trước cùng ân ái, nay oán thù nhau; xưa vốn là thù địch, nay thành cốt nhục một nhà. Trước là mẹ nay lại làm cha, trước là cha nay lại làm chồng. Nếu nhớ biết được chuyện đời trước, ắt phải thấy xấu hổ, nhục nhã. Người có thiên nhãn nhìn thấu tất cả, ắt phải thấy nực cười mà thương xót.

    Phẩn uế tụ thành một bọc, chín tháng trong ấy khó qua; máu mủ nhơ nhớp một đường, nhất thời chui xuống đáng thương! Ấu thơ không biết, đó đây đều không phân biệt; lớn lên nhận hiểu, tức thời khởi sinh tham dục. Không bao lâu thì bệnh khổ, già nua tìm đến, chẳng mấy chốc vô thường đã gọi. [Phút lìa đời] gió lửa hỗn độn, vây quanh thần thức rối loạn; tinh huyết cạn kiệt, bên ngoài da thịt dần khô. Mỗi lỗ chân lông đều như kim đâm thấu thịt; mắt mũi miệng thảy đều như dao cắt. Con rùa mang nấu chín, thịt lôi ra khỏi mai vẫn còn là dễ, so với thần thức lúc lâm chung thoát xác còn khó hơn bội phần.

    Tâm này không có chủ thể thường tồn, như khách buôn khắp chốn đều làm khách lạ. Thân này không có hình thể cố định, chỉ như nhà ở thường dời chuyển đó đây. Thân này biết bao lần qua lại giữa luân hồi, [tính đếm ra thì] số hạt bụi cõi đại thiên cũng không so được. Mỗi mỗi biệt ly rơi lệ, [gom hết lại thì] sóng nước trong bốn biển cũng chẳng nhiều bằng. Xương cốt bao đời tích lũy, dẫu núi cao còn chưa sánh kịp. Thân xác từng bỏ trong sáu nẻo, dàn trải ra tràn khắp cõi đất. Ví như không được nghe lời Phật dạy, những điều như vậy ai thấy ai nghe? Khi chưa đọc qua Kinh điển, lý lẽ như thế làm sao rõ biết?

    Nếu cứ tham luyến như xưa, si mê không khác trước, chỉ sợ trong muôn kiếp ngàn đời, một lần sai sẽ trăm lần sai tiếp. Thân người này khó được dễ mất, tuổi đời trôi nhanh không thể níu kéo. Rồi đường trước mịt mờ, một lần biệt ly là thăm thẳm. Nghiệp báo xấu ác trong ba đường dữ, tự làm tự chịu. Đau đớn không sao nói hết, biết ai thay mình nhận lãnh? Nói đến đây, sao có thể không rùng mình run sợ?

    Vì thế nên phải dứt dòng sinh tử, thoát biển ái dục, cứu mình cứu người, cùng lên bờ giác. Công phu thành tựu trong muôn kiếp lâu xa, đều tùy thuộc vào nỗ lực quyết định một lần này.

    Đó là nhân duyên thứ sáu để phát tâm Bồ-đề.

    Thế nào là vì tôn trọng tự tánh linh giác? Đó là nói việc tâm thức này của ta hôm nay, so với tâm thức của đức Thích-ca Như Lai quả thật không hai, không khác. Vì sao đức Thế Tôn từ vô lượng kiếp trước đã sớm thành Chánh giác, còn ta thì đến nay vẫn hôn mê điên đảo, vẫn còn là phàm phu? Đức Thế Tôn lại có đủ vô lượng thần thông, trí tuệ, công đức trang nghiêm, còn ta thì chỉ thấy đầy dẫy vô số phiền não, nghiệp lực dắt dẫn, sinh tử trói buộc? Cùng một tâm tánh mà mê ngộ cách nhau như trời vực, tĩnh tâm suy xét, lẽ nào lại không đáng hổ thẹn? Thật chẳng khác gì hạt châu vô giá nằm trong bùn nhơ, bị xem như ngói sỏi không ai quý trọng.

    Thế nên phải dùng đến vô số pháp lành để đối trị phiền não, dày công tu tập giới hạnh thì tánh đức mới hiển lộ, như hạt châu kia được rửa sạch mài sáng, mang treo lên tòa cao, rực rỡ tỏa chiếu, soi sáng khắp nơi. Như thế mới có thể gọi là không bội ơn giáo hóa của Phật, không uổng phụ tánh linh giác của chính mình.

    Đó là nhân duyên thứ bảy để phát tâm Bồ-đề.

    Thế nào là sám hối nghiệp chướng? Trong kinh dạy rằng, phạm một trong các tội đột-cát-la,  phải đọa vào địa ngục thời gian lâu bằng 500 năm tuổi của trời Tứ thiên vương.  Đột-cát-la là tội nhẹ, mà còn chịu nghiệp báo như vậy, huống chi các tội nặng, nghiệp báo quả thật khó nói hết!

    Chúng ta ngày nay trong sinh hoạt thường ngày, mỗi hành vi, động tác thường phạm giới hạnh; mỗi miếng cơm, ngụm nước luôn trái luật nghi. Mỗi một ngày qua đã phạm vô số tội, huống hồ trong suốt một đời, trải qua nhiều kiếp, tội lỗi sinh khởi chắc chắn là không thể nói hết!

    Chỉ xét riêng theo Năm giới mà nói, mười người đã chín kẻ phạm, nhưng người phát lộ thì ít, kẻ che giấu lại nhiều. Năm giới chỉ là giới của người cư sĩ mà còn chưa giữ trọn, huống chi các giới sa-di, tỳ-kheo, Bồ Tát giới, hẳn sự thiếu sót đã quá rõ không cần phải nói. Có ai hỏi đến liền xưng danh tỳ-kheo, nhưng xét thực chất lại chưa trọn đức hạnh của người cư sĩ, chẳng đáng hổ thẹn lắm sao?

    Nên biết rằng, giới luật do Phật chế định, thà không thọ trì, một khi đã thọ trì thì không được hủy phạm, một khi đã hủy phạm thì rốt cùng phải chịu đọa lạc. Nếu không sớm khởi tâm thương mình thương người, đau xót cho người, đau xót cho mình, thân khẩu cùng thống thiết, miệng niệm lệ rơi đều chân thành, khắp vì tất cả chúng sinh, bi ai cầu xin sám hối, thì chắc chắn trong ngàn đời muôn kiếp, khó tránh được quả báo xấu ác.

    Đó là nhân duyên thứ tám để phát tâm Bồ-đề.

    Thế nào là cầu sinh Tịnh độ? Đó là nói việc nơi thế giới Ta-bà này, tu hành tăng tiến rất khó khăn; được vãng sinh về Tây phương Cực Lạc, thì thành tựu quả Phật cũng dễ dàng. Vì dễ dàng nên một đời có thể xong việc, bởi khó khăn nên nhiều kiếp vẫn chưa thành. Thế nên, các bậc hiền thánh xưa nay, ai ai cũng cũng đều hướng đến; trong ngàn kinh muôn luận, đâu đâu cũng chỉ về Tịnh độ.

    Trong đời mạt pháp, không một pháp môn nào vượt hơn Tịnh độ. Tuy nhiên, trong kinh dạy rằng, căn lành ít không thể vãng sinh, phúc đức nhiều mới có thể thành tựu. Muốn nhiều phúc đức, chẳng gì hơn niệm danh hiệu Phật; muốn thừa căn lành, không gì bằng phát tâm rộng lớn. Vì thế, niệm thánh hiệu dù trong chốc lát, cũng hơn người bố thí trăm năm; một khi vừa phát tâm Bồ-đề, đã vượt qua sự tu hành nhiều kiếp.

    Niệm Phật vốn mong thành Phật, nếu chẳng phát tâm rộng lớn thì niệm để làm gì? Phát tâm là để tu hành, nếu không sinh về Tịnh độ thì dù phát tâm rồi cũng sẽ thối chuyển. Cho nên, ruộng tâm địa gieo hạt giống Bồ-đề, dùng lưỡi cày niệm Phật, thì đạo quả tự nhiên tăng trưởng. Nương con thuyền đại nguyện, vào biển lớn Tịnh độ, cõi Tây phương quyết định được vãng sinh.

    Đó là nhân duyên thứ chín để phát tâm Bồ-đề.

    Thế nào là khiến cho Chánh pháp được trụ thế lâu dài? Đó là nói việc đức Thế Tôn của chúng ta, từ vô số kiếp đến nay, vì chúng ta mà tu đạo Bồ-đề, việc khó làm cũng làm được, việc khó nhẫn cũng nhẫn được, cho đến khi nhân quả viên mãn, cuối cùng thành tựu quả Phật.

    Sau khi thành Phật, hóa độ chúng sinh trọn khắp, nhân duyên đã dứt mới nhập Niết-bàn. Cho đến các giai đoạn chánh pháp, tượng pháp đều đã qua, nay chỉ còn thời mạt pháp. Giáo pháp không người tu tập, tà chánh chẳng thể phân, đúng sai không rõ biết; người người tranh đua chạy theo nhân ngã, thảy thảy đều mưu cầu lợi danh. Nhìn khắp thiên hạ mênh mông đều là như vậy, chẳng còn ai biết Phật là người nào, Pháp có nghĩa chi, Tăng là danh xưng gì? Suy tàn cho đến mức ấy, nói ra càng không nỡ, mỗi khi nghĩ đến bất giác phải rơi lệ.

    Chúng ta là Phật tử mà không thể báo đền ơn Phật, tự thân không làm lợi mình, đối với bên ngoài chẳng làm lợi người, sống trên đời đã là vô ích, chết đi cũng chẳng lợi lạc mai sau, trời tuy cao không sao che chở, đất tuy dày chẳng thể đỡ nâng. Như vậy, kẻ mang tội lỗi nặng nề nhất, chẳng phải ta thì là ai?

    Do đó nên trong lòng đau đớn không sao chịu nổi, chẳng nghĩ được cách nào cho vẹn toàn. Hốt nhiên liền quên đi sự kém cỏi của mình, khởi phát tâm Bồ-đề rộng lớn. Tuy hiện nay không thể vãn hồi đời suy mạt, nhưng quyết sẽ lo tính việc hộ trì Chánh pháp tương lai. Vì thế mới cùng các vị thiện hữu đến nơi đạo trường, soạn thành sám pháp, lập pháp hội này, phát khởi 48 lời nguyện lớn, mỗi nguyện đều cứu độ chúng sinh. Mong sao luôn giữ tâm sâu vững trong trăm ngàn kiếp, tâm nào cũng đều là tâm Phật.

    Kể từ hôm nay cho đến tương lai không cùng tận, hết một đời này nguyện sinh về Cực Lạc, tiến tu lên hàng cửu phẩm, quay lại cõi Ta-bà, làm cho mặt trời Phật đạo lại rực rỡ huy hoàng như trước, Phật pháp lại rộng mở khắp thế gian, chư Tăng như biển lớn thanh tịnh trong toàn cõi, người người được hóa độ ngay tại Ta-bà, đời thịnh đức nhờ đó tăng thêm, Chánh pháp trụ dài lâu cõi thế; tâm nguyện hết sức chân thành, tha thiết như vậy.

    Đó là nhân duyên thứ mười để phát tâm Bồ-đề.

    Mười nhân duyên như trên đều đã biết, tám khuynh hướng phát tâm cũng hiểu rõ ràng, như vậy thì hướng đi đã có, điểm phát khởi đã xác định. Thêm vào đó ta lại được thân người, sống nơi văn hiến, sáu căn bình thường, thân thể khỏe mạnh an ổn, có đủ tín tâm, thật may mắn thay đường tu không có gì chướng ngại.

    Huống chi ngày nay chúng ta lại được xuất gia, được thọ Cụ túc giới, được gặp Đạo tràng, được nghe Phật pháp, chiêm ngưỡng xá-lợi Phật, lại tu tập sám pháp, gặp được bạn lành, đầy đủ nhân duyên thù thắng. Nếu hôm nay đây không phát tâm Bồ-đề, thì còn đợi ngày nào?

    Chỉ mong Đại chúng thương đến sự chân thành dẫu là ngu muội, xót cho chí nguyện khó nhọc kiên trì của tôi, xin hãy cùng nhau phát tâm, lập nguyện Bồ-đề. Người chưa phát tâm, hôm nay hãy phát tâm; đã phát tâm rồi xin hãy tăng trưởng; đã tăng trưởng rồi, xin hãy tiếp tục đừng gián đoạn. Đừng sợ khó khăn mà thối thất, đừng thấy dễ dãi mà xem thường không cẩn trọng; đừng quá nôn nóng mà không giữ được dài lâu, đừng lười nhác buông thả mà thiếu sự dũng mãnh; đừng yếu hèn mất đi sự phấn chấn, đừng lần lữa do dự mà đợi chờ không dứt khoát; đừng vì tự thấy mình ngu si mà buông xuôi không chú ý, đừng vì căn tánh chậm lụt mà nghĩ mình không thể dự phần. Ví như việc trồng cây, lâu ngày thì rễ cạn dần ăn sâu, hoặc như mài dao, mài lâu thì lưỡi cùn thành sắc bén. Lẽ nào vì thấy rễ cạn mà không trồng, để cây phải chết khô; vì thấy lưỡi cùn mà không mài, để dao thành vô dụng?

    Hơn nữa, nếu cho rằng tu hành là khổ nhọc, ấy thật chẳng biết rằng, lười nhác buông thả sẽ còn khổ hơn. Tu hành thì khổ nhọc tạm thời, nhưng được an vui mãi mãi, lười nhác thì an ổn tạm bợ một đời, nhưng phải chịu khổ đau nhiều kiếp. Huống chi, nếu nhờ đến con thuyền Tịnh độ, thì đâu phải lo gì thối chuyển? Được pháp vô sinh làm sức nhẫn chịu, thì đâu ngại gian nan? Nên biết rằng tội nhân trong địa ngục, mà còn có kẻ phát tâm Bồ-đề từ kiếp trước, huống chi là Phật tử trong cõi người, lại không lập đại nguyện đời này?

    Do hôn ám si mê từ vô thủy, nên việc ngày trước không thể cản ngăn; ngày nay được tỉnh ngộ, chuyện tương lai có thể sửa đổi. Kẻ mê chưa ngộ vốn đã đáng thương, nhưng người biết mà không làm lại càng đớn đau đáng tiếc hơn nữa. Nếu biết sợ nỗi khổ địa ngục, thì tự nhiên khởi tâm tinh tấn. Luôn nhớ đến vô thường nhanh chóng, thì không dám lười nhác buông thả. Lại phải dùng giới pháp của Phật mà làm đòn roi nhắc nhở, thôi thúc; nhờ bạn lành cùng nâng đỡ, dắt dẫn nhau. [Đã phát tâm rồi,] dù khi nguy cấp, gấp rút cũng chẳng lìa, dẫu suốt đời trọn kiếp, vẫn nương theo không bỏ, như vậy thì không còn lo gì sự thối thất.

    Đừng cho một niệm tưởng là nhỏ nhoi [mà khinh suất dễ duôi], đừng nghĩ việc phát nguyện chỉ là [nói suông nên] hư dối không hữu ích. Tâm chân thành thì sự việc đúng thật, nguyện lớn rộng thì chỗ thực hành sâu. Hư không chưa phải lớn, vì tâm này mới là rộng lớn; kim cương chưa phải bền chắc, vì nguyện lực còn bền chắc không gì hơn.

    Nếu đại chúng có thể thật lòng không gạt bỏ những lời trên, thì quyến thuộc Bồ-đề từ đây nối kết, thệ ước đồng tâm niệm Phật từ nay bền chặt. Đã phát nguyện cùng sinh về Tịnh độ, cùng gặp Phật Di-đà, cùng giáo hóa chúng sinh, cùng thành Chánh giác, thì biết đâu trong tương lai ba mươi hai tướng tốt, trăm phúc tướng trang nghiêm, lại chẳng bắt đầu ngay từ sự phát tâm lập nguyện của ngày hôm nay? Nguyện cùng đại chúng nỗ lực cố gắng. Điều tốt đẹp ấy, thật kỳ vọng lắm thay!

    Source: TVHS

    Read more »
  • ĐỀN THỜ PHẬT TUYỆT ĐẸP DƯỚI ĐÁY BIỂN INDONESIA

    Đất nước Indonesia nổi tiếng với ngôi đền thờ Phật giáo độc đáo nhất thế giới, Borobudur (hay còn gọi là Candi Borobudur theo tiếng địa phương), nhưng đất nước này hiện vẫn còn ẩn giấu một ngôi đền thờ Phật tuyệt đẹp khác đang chìm dưới đáy biển. Vẻ nguy nga tráng lệ và trang nghiêm của di tích đền thờ Phật này không hề thua kém gì so với Borobudur, đủ để làm rung động cả thế giới.

    Vậy, ngôi đền thờ Phật chìm dưới đáy biển này là di tích của thời kỳ nào? Kỳ thực vẫn chưa tìm được đáp án chính xác cho câu hỏi này. Nhưng nếu căn cứ vào hình dạng kiến trúc và kiểu dáng của nó thì khả năng lớn là nó có cùng niên đại với đền thờ Borobudur tức là vào thế kỷ 7-8 sau công nguyên. Bởi vì vào thời kỳ Phật giáo phát triển hưng thịnh ở quốc gia Srivijaya (thế kỷ 7-8) này, việc kiến tạo đền bằng đá đã trở thành một trào lưu mạnh mẽ ở nơi đây và Borobudur là một ví dụ.

    Theo thông tin hiện có, di tích đền thờ Phật này nằm ở vùng biển cách không xa so với Borobudur. Indonesia nằm ở khu vực núi lửa hoạt động mạnh từ xưa đến nay, những vụ núi lửa lớn nhỏ hoạt động đã khiến nơi đây xảy ra nhiều tai nạn thiên nhiên, cũng làm thay đổi vỏ trái đất. Đền chùa được kiến tạo bằng đá mặc dù dễ bảo tồn, nhưng muốn ngăn cản sự ảnh hưởng  của sự vận động của vỏ trái đất thì cũng không phải việc dễ dàng. Vì vậy, trong lịch sử  Borobudur đã từng bị chôn vùi bởi núi lửa và di tích đền thờ Phật đang chìm dưới đáy biển này có thể cũng đã gặp phải cảnh ngộ này. Còn có một số đền thờ Phật có kiến trúc tương tự đã vì sự biến đổi tự nhiên mà bị thay đổi hình dạng và vị trí địa lý.

    Source TVHS

    Read more »
  • Làm Sao Giác Ngô ?

    GIÁC NGỘ “TỰ TÁNH”


    TRONG THIỀN  PHẬT GIÁO

    (Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng)

    PHẦN 1: Thiền Huệ Năng : Thiền là ”Thấy Tánh”

    PHẦN 2: Bản chất của Vô Minh & Giác Ngộ

    PHẦN 3: LÀM SAO ĐỂ GIÁC NGỘ “TỰ TÁNH” ?

    Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (66)

    1.      Tiệm Ngộ và Đốn Ngộ

    Bằng cách nào để Giác ngộ đó là điều mà nhiều trường phái Thiền khác nhau ra đời. Tuy vậy, đến thời của Huệ Năng, vấn đề của Giác ngộ mới phân ra thành Đốn ngộ và Tiệm ngộ. Ngay ở trong từ ngữ cũng đã diễn tả được phần nào ý nghĩa của hai trường phái này. Tiệm Ngộ tức là đạt ngộ từ từ, dần dần thường được quy về cho Phật Giáo phương Bắc Trung Hoa của sư Thần Tú[1], còn Đốn ngộ tức là Ngộ ngay lập tức. Tinh thần hai trường phái Đốn Tiệm cách nào đó được trình bày khá rõ trong nội dung ở hai bài kệ mà Thần Tú và Huệ Năng viết cho Ngũ Tổ khi Sư yêu cầu viết để được truyền thừa Y Bát.

    Bài kệ của Thần Tú như sau:                             

    Thân thị Bồ Đề thụ,     

    Tâm như minh cảnh đài.

    Thời thời cần phất thức,

    Vật sử nhạ trần ai.

    Dịch nghĩa:

    Thân là cây Bồ Đề.

    Tâm như đài gương sáng.

    Luôn luôn siêng lau chùi,

    Chớ cho dính bụi trần.

    Còn bài kệ của Huệ Năng viết lại như sau:      

    Bồ Đề bổn vô thụ,

    Minh cảnh diệc phi đài.

    Bổn lai vô nhất vật,

    Hạ xứ nhạ trần ai?

    Dịch nghĩa:

    Bồ Đề vốn chẳng cây,

    Gương sáng cũng chẳng đài.

    Xưa nay không một vật,

    Nơi nào dính bụi trần?

    Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (79)

    Thật hư hai trường phái Đốn Tiệm thật ra còn nhiều ý nghĩa bên trong, chúng ta cùng lắng nghe lời luận giải của Huệ Năng khi bàn về những vấn đề này:

    “Chánh Giáo vốn chẳng đốn tiệm, tánh người tự có lợi độn, kẻ mê tiệm tu, người ngộ đốn khế. Đốn tiệm chỉ là giả danh kiến lập mà thôi, nếu tự nhận được bổn tâm, tự thấy được bổn tánh thì chẳng sai biệt vậy.” [2]

    Ở đây, Huệ Năng chỉ rõ rằng: việc phân thành trường phái Đốn-Tiệm là không quan trọng, việc chính yếu là anh có tự thấy được Tự Tánh hay không. Dù anh theo trường phái nào nhưng miễn là anh tự chứng được Tự Tánh thì anh đã Đốn Ngộ. Đốn ngộ ở đây phải được hiểu chính xác là tự thấy Tự Tánh chứ chẳng phải là chứng ngộ những giới điều bên ngoài thuộc lý trí mà có được. Giác Ngộ Tự Tánh như vậy mới được gọi là Đại Ngộ. Nghĩa là một sự giác ngộ rốt ráo, đến cùng. Từ đây mọi vấn đề trước đây được gọi là mâu thuẫn đều được giải quyết ổn thỏa không còn nghi hoặc nữa. Đốn ngộ là nắm được bổn gốc Bồ Đề của Tự Tánh chẳng lệ thuộc vào gì cả, là tự do tự tại… Do vậy, người đã Giác Ngộ thì chỉ tin nơi Tự Tánh và từ Tự Tánh mà quán chiếu vạn vật, như vậy thì được tự do. Đại ngộ là ngộ được Tự Tánh của tâm, từ đó là một chìa khóa mở ra tất cả các pháp[3]. Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn cũng từng nói với Huệ Năng: “Chẳng nhận được bổn tâm, học pháp vô ích, nếu nhận được bổn tâm thấy được bổn tánh, tức gọi là Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật”. Huệ Năng cũng từng nhắc đồ chúng và môn đệ của mình đừng vì phân biệt cao thấp ĐốnTiệm mà phản lại giáo pháp:

    “Người học đạo cần phải dứt trừ cho sạch tất cả thiện niệm ác niệm, cho đến chẳng còn chỗ để gắn tên, rồi lại gắn tên nơi Tự Tánh; Tự Tánh vốn bất nhị, gọi là thật Tánh. Từ nơi Phật Tánh mới kiến lập tất cả giáo môn. Pháp môn của các tông dù có khác, nhưng đều cùng xuất phát từ một nguồn, vốn chẳng cao thấp, người học đạo chớ nên tranh giành hơn thua mà trái nghịch với đạo. Còn pháp Đốn giáo này thì cần phải ngay đó (chẳng tác ý) tự ngộ tự thấy mới được.[4]

    Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (62)

    2.      Đốn Ngộ

    Để tránh lầm lẫn ta cần hiểu đúng hơn về hai từ “Đốn ngộ” nơi bản chất của nó trong thực tế. Đốn Ngộ như đã nói là cái thấy tức thì, con mắt của Huệ Nhãn nắm lấy toàn thể thực tại chỉ qua một cái nhìn dựa trên Tự Tánh, đó là cái thực Siêu Việt giải phóng khỏi cái nhìn nhị nguyên dưới mọi hình thức. Đốn Ngộ như vậy nghĩa là không diễn ra theo tuần tự, lần hồi và liên tục. Câu nói của Kinh Kim Cương rất quan trọng “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Nghĩa là, không cần biết kẻ ngu người trí chỉ cần nếu tâm thức không còn bám dính vào đâu nữa thì hy vọng sẽ thấy Tánh, cái tâm lúc này là cái Tâm sáng. Cho dù một kẻ ngu muội, đã lâu cố hữu trong tội lỗi tầy trời nếu dứt bỏ đường tà, nhận ra bổn tâm thanh sạch của mình thì cũng thành người trí, cũng có thể thành Phật như thường.

    Nói như vậy, nhiều người có vẻ nói hơi quá nhưng đó là sự thật với nhiều tội nhân được cải hóa hoàn toàn sẽ được thành người giác ngộ, thành Phật. Kinh Bồ Tát nói: “Từ ban sơ, cái Tánh của ta vốn là thanh tịnh, nên nếu ta biết tự tâm thấy Tánh là thành Phật đạo”. Kinh Tịnh Danh còn nói: “Tức thì mở thông là được lại Bổn Tánh”. Do vậy, nói đến Đốn ngộ là phải nhắc đến việc Thấy Tánh, chỉ vừa thoáng ngộ là đã vào Đất Phật. Ở đây như một cuộc đảo lộn lớn lao, việc từ một tội nhân hoán cải mà thành Phật ngay thì chỉ trong Một Niệm hay một khoảnh khắc (satna) là có ý như vậy. Chỉ cần Trí Bát Nhã quán chiếu thì trong khoảnh khắc mọi vọng niệm đều tan hết. Hơn nữa, điều khác biệt cần nhấn mạnh ở đây về sự đốn ngộ là sự hoán cải nội tâm đến tận căn, rốt ráo. Đó là một sự “tỉnh giấc” khỏi cơn mê hoàn toàn chứ không lây lất mơ màng, hâm hẩm nửa lạnh nửa nóng nữa. Như một cuộn tơ “chém một mối là chém hết”. [5] Do vậy, đốn ngộ là nắm ngay gốc để biết được hết cả cây từ gốc đến ngọn.

    Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (58)

    3.       Các giai đoạn và cấp bậc Đốn ngộ

    Các câu chuyện hay công án của Thiền môn kể rất nhiều về cách đạt ngộ của các Thiền Sư. Trong việc ngộ đạo sở dĩ mà có người nhanh chậm là cũng do căn cơ mỗi người. Có những cách đạt ngộ một cách đơn giản như Huệ Năng chỉ cần một câu nói trong Kinh Phật hay của Ngũ Tổ cũng đủ để được khai ngộ. Thế nhưng, có những Thiền sư khác cũng phải trả giá rất đắc khi phải hy sinh cả những phần cơ thể tay chân của mình, đôi lúc phải chịu nhục nhã, đau thương, mất mác… có khi một năm, mười năm hay phải cả đời mới được chứng ngộ chứ không đơn giản để đạt ngộ tức thì dễ dàng như nhiều người nghĩ. [6]

    • Khai Ngộ

    Bước Khai ngộ (tức bước đầu thấy Tự Tánh) là rất quan trọng đối với những ai đi theo bước Thiền, nếu không được Khai ngộ thì dù có tu luyện lâu năm cũng là “công dã tràng đổ sông đổ biển”. Do vậy, Thiền Sư phải là người rất tinh ý trong việc hiểu căn cơ của các đồ đệ, rồi ngài có thể dùng bất cứ phương tiện gì để giúp đồ đệ của mình cởi bỏ những bám dính Vô minh cố hữu nơi mình. Mỗi người đều có những cái mê khác nhau nên bước Khai ngộ sẽ chẳng ai giống ai. Đôi lúc Thiền Sư chỉ rõ “ngưỡng cửa cần vượt qua” nhưng tâm tư của người môn đệ vẫn ngu muội không tự nhận ra thì “vẫn chưa là gì cả”! Có nhiều người tu cả đời mà không được Ngộ vì lẽ là quá bám dính nơi hư danh trần thế và đặc biệt là nơi “cái tôi quá vĩ đại” của mình. Thiền Sư chỉ là người dẫn lối để đến cửa Thiền của Tự Tánh còn việc nhận ra và bước vào thì đó là việc của chính đương sự. Thiền sư hay ngay cả Phật cũng chẳng giúp được gì cho môn đệ mình, trừ phi tâm trí người môn đệ đã được dọn sẵn để tiếp nhận.

    Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (52)

    • Cơ duyên Tự ngộ

    Việc được Giác ngộ không chỉ là việc xảy ra vô tình nhưng còn phụ thuộc vào Ý chí của đương sự để vượt qua chính mình nữa. Ngộ thuộc phạm vi cá tính, chẳng phải thuộc tri thức. “Một người tinh nhuệ về tri thức không xô nổi cánh cửa huyền vi của Đạo Thiền nhưng một bản lĩnh uy hùng uống ngay được ngọn nước đầu nguồn.” Bởi vì Ý chí chính là con người. Do vậy, Giác ngộ đòi hỏi một nổ lực cá nhân khủng khiếp thì mới hy vọng có kết quả thỏa đáng. Đôi lúc đương sự phải dùng hết mọi khí lực bình sinh để đoạn triệt với mọi bám víu; vật lộn nhiều, đau đớn, ê chề, với những tật cố hữu ray rứt trong tâm can … Nói là Ý chí nhưng phải hiểu Ý chí để “buông xả thanh thản” chứ chẳng phải là dùng Ý chí để đạt cho được điều gì, ngay cả ý muốn được giác ngộ nhanh chóng cũng phải “buông”. Đó quả thật là một cuộc “rửa tội trong lửa cho tâm trí”. Đó là lúc mà “mảnh đất của Ý thức hoàn toàn lắng sạch, khi mà tâm trí hoàn toàn trong suốt, mọi suy lượng đều ngưng đứng”.[7]

    Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (72)

    Tuy nhiên, đó vẫn chưa là cứu cánh, chỉ mới là cơ duyên, là bước “chuẩn bị đất” rất cần thiết để hạt giống của Tự Tánh sinh sôi nảy nở dễ dàng. Việc chuẩn bị đất kỹ càng chừng nào thì cơ duyên giác ngộ càng dễ chừng nấy, tình trạng như thế Thiền môn gọi là “Đại Nghị”. Sau đó, việc cơ duyên thức tỉnh thành Đại ngộ có thể là dựa trên bất cứ điều gì miễn là ở “trạng thái tập trung nung đến cực độ và có sự nổ bùng trong ngộ”. Quả vậy, “những chuyện ngộ đạo có vài hàng chữ khiến ta có cảm tưởng ngộ chỉ là một trò chơi dễ như ăn cơm uống nước”. Thật ra, đó chỉ là lúc “lúa chín và gặt về”, là lúc “rung cây cho trái chín rụng xuống thôi, trước đó là một tiến trình dài từ hạt giống đến mầm, lá, nụ, hoa, trái… trải qua bao ngày nắng sương, bao mưa gió giải dầu” thì không là chuyện đùa chút nào![8]

    Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (64)

    • Ngộ Nhập

    Cũng phải nói rằng, khai ngộ là bước ngoặc quan trọng của đời người, nhưng Thiền đúng nghĩa thì không dừng lại đó. Ngộ Thiền lý thôi chưa đủ, còn phải tiếp tục tu hành. Giờ đây, người giác ngộ “không cần phải ở lại Thiền đường nữa nhưng phải được trui rèn qua những thử thách mới trong cuộc trộn lẫn với thế gian”. Người được Giác ngộ Tự Tánh phải chứng thực sự Giác ngộ của mình nơi cái nhìn quán chiếu sự vật trong đời sống của mình. Đây là lúc anh phải “sắp xếp mọi ngõ ngách đời sống mình theo một nhãn quan mới”. Mỗi động tác sinh hoạt đều phải “thấm nhuần Thiền vị”. Mức độ Giác ngộ vì thế không phải là ai cũng giống ai nhưng khác nhau ở chỗ là anh đã đánh đổi tất cả ngay cả chính mình để được tự do và có lối sống hòa nhập với Tự Tánh đến mức nào. Ngộ là phải nhập, mức độ hòa nhập với Tự Tánh nói lên mức độ Giác ngộ của anh. Muốn thế, cả một đời người có lẽ không thấm vào đâu. “Tương truyền rằng cả đến Phật Thích Ca và Phật Di Lặc vẫn còn đang hồi tu tập”.[9]

    Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (43)

    4.      Bình thường Tâm

    Người ta thường nghĩ bước vào Thiền môn là quên hết mọi sự nên có vẻ đời sống không thực tế lắm. Thiền sư là người có vẻ khác người, đầy nghịch lý nên không thể thích ứng với thời đại, hay nói mạnh hơn là chỉ có lên núi tu mới phù hợp. Làm sao có thể sống trong thực tế mà lại không phân biệt điều gì cả, lối sống như thế có là trên mây trên gió quá chăng? Đi ngang qua, ngưỡng cửa Thiền môn quả là khó hiểu và lạ lẫm nhưng lạ một điều là nhiều người lại muốn đến đó nương thân cho yên tịnh tâm hồn vì sự đời đảo điên quá không thể chịu nổi. Nhiều người có tâm cầu đạo thật sự ban đầu có vẻ khó hiểu nhưng khi hiểu Thiền rồi thì dấn thân đến cùng, đời sống cũng được biến đổi theo vì cảm thấy tự do và hạnh phúc. Như vậy, Thiền có quá xa thực tế như nhiều người nghĩ không?

    Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (78)

    Thật ra, điều mà nhiều người vẫn nói là xa thực tế là bởi vì Thiền “quá thực tế”, thực tế đến “không chịu nổi”. Thiền cũng đi vào cuộc sống thực tế như ai, đáp ứng với cảm nghĩ cuộc sống bình thường như: “đói thì ăn cơm, mệt thì đi ngủ”, “uống trà là uống trà thôi”… Nói là nói vậy, Thiền cũng khác với đời sống thế tục lắm! “Người đời khi ăn, thật ra chẳng phải ăn cơm thật sự nhưng trong lòng còn băn khoăn lo lắng nhiều chuyện thế sự, còn vọng cầu trăm thứ; khi ngủ thì ngủ cũng chẳng ngon giấc, trong giấc ngủ còn toan tính ngàn điều.”[10] Thiền đúng nghĩa là sống trọn giây phút hiện tại, không nghĩ ngợi xa vời.

    Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (74)

    Bởi thế, đời sống Thiền bên ngoài thì có thể giống nhau nhưng bên trong thì một trời một vực. Đời sống thường ngày được gắn với nhiều nỗi lo lắng băn khoăn sợ hãi, trong khi Thiền rất tự do tự tại. Thiền mang tính “vô vi” là ở chỗ đó, chẳng phải là sự thụ động an nhàn lười biếng nhưng ở chỗ Thiền cũng làm việc, cũng ăn uống ngủ nghỉ như ai nhưng trong tâm thế thoải mái hơn, yên tịnh hơn, vui tươi hơn. “Phong thái cuộc đời như đang hồi xuân”, tâm hồn như một mặt hồ không chút gợn sóng, dù sự đời đảo điên nhưng vẫn an nhiên tự tại, chẳng bao giờ bấn loạn từ bên trong.

    Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (63)

    Lối sống như vậy cũng chẳng phải là dửng dưng, vô cảm như ở trên mây nhưng luôn sẵn sàng để “thỏng tay vào chợ”[11], là chấp nhận mọi hoàn cảnh xảy tới một cách bình tâm, là chấp nhận mọi người như chính họ không phân biệt tốt xấu, sang hèn… Họ cũng đau nỗi đau của nhân sinh, cũng khóc với người khóc, cũng cười với người cười nhưng khác ở chỗ là tâm hồn họ không quá quỵ lụy vào điều gì cả. Ngộ như vậy là lành mạnh bổ ích, là sống cuộc sống bình thường một cách phi thường, chấp nhận mọi sự xảy đến cách tích cực nhất. Họ sống trọn giây phút hiện tại, hết mình cho công việc hôm nay. Nếu có dự tính thì họ cũng chỉ là định hướng theo bản chất và sự thúc đẩy từ bên trong của Tự Tánh, không lo lắng quá về thành công hay thất bại sẽ xảy ra. Họ chỉ quan tâm vun đắp cho những gì liên quan đến niềm vui và sự sống thật xuất phát sự từ bên trong “ở đây và bây giờ” và họ cũng muốn giúp người khác có được niềm vui và sức sống như họ. Đó chính là niềm vui và sức sống của tâm hồn có “Tự do nội tâm”.

    Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (60)

    Kết luận

    Nhìn chung, “Giác ngộ được Tự Tánh” là điều đáng khao khát nhưng không phải là điều dễ dàng và không phải ai cũng nhận ra và khao khát điều đó. Ai đó đã nói: “Mặc dù con người luôn mang trong mình con tim khao khát chân lý nhưng phản ứng đầu tiên khi đối diện với những mầu nhiệm của chân lý là sự đối nghịch và sợ hãi”. Hơn nữa, tâm thế bình thường của con người phần lớn ai cũng thích được “ru ngủ” nơi những an ủi bên ngoài nơi “giấc mộng đẹp mà mình đang ao ước và nếm hưởng” hơn là được thức tỉnh để trở về với hạnh phúc thật là bên trong tâm hồn mình. Cho dù biết rằng mình đang mơ ngủ và biết rằng “cuộc đời chỉ là tạm bợ” nhưng thực tế là chẳng ai muốn mình được tỉnh giấc và chấp nhận sự thật đó cả!

    Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (61)

    Do vậy, điều tiên yếu mà Thiền chú ý đến là làm sao để “biết mình”. Biết mình đang trong tình trạng nào, khao khát gì và điều gì đang chi phối mình là điều tưởng chừng như thừa nhưng không phải ai cũng thật sự “biết” và “muốn biết”. Phần lớn, con người không thoát ra được chính mình vì luôn tự đánh lừa chính mình trong những lý lẽ ngụy biện và cố dùng mọi cách để vùi dập tiếng nói Lương Tâm trong mình.

    Làm sao để được giác ngộ đây khi mà tâm hồn tôi luôn ở trong những bề bộn ngạt thở của cuộc sống? Điều kỳ lạ là ta sẽ không đi đâu xa để kiếm cho được một “Thiền đường” phù hợp, vì dù muốn dù không chúng ta cũng đang ở trong đó rồi. Quả thế, cuộc đời là một Thiền đường tuyệt vời và “Tiếng nói của Tự Tánh bên trong mình” chính là một Linh Sư đầy khôn ngoan. Các biến cố và những khó khăn mà chúng ta cần phải vượt qua là những bài thực tập để ta từng bước được thức tỉnh, lột bỏ những “giấc mộng ảo” mà mình hay bám víu. Vấn đề là sau những đau khổ, đau thương mất mát trong cuộc sống chúng ta có trở về và lắng nghe tiếng nói của “Vị Linh Sư trong tâm mình” hay không, hay lại trở nên cứng cỏi để tìm sự xoa dịu nơi những ảo vọng khác!

    Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (65)

    Nói cho cùng, thành công lớn trong cuộc đời con người chẳng phải là có được hay làm được điều này điều kia để đáng tự hào, nhưng là làm sao chính mình thức tỉnh và tự nhận ra kho tàng Tự Tánh Siêu Việt bên trong mình. Cuộc sống luôn cần những “khoảng lặng của Thiền đường nội tâm” để trở về với chính mình, lắng nghe và để đời sống mình hòa điệu nhịp nhàng với cuộc sống và vũ trụ.

    Có lẽ, đã đến lúc người ta sẽ không còn so sánh với nhau về địa vị sang-hèn, giàu-nghèo, hay-dở, hơn-thua, mạnh-yếu hay ai đúng hơn ai nữa nhưng ở chỗ là xem chính mình có thực sự “Vui, Bình an và Thanh thản không” từ trong sâu thẳm tâm hồn!

    Lửa Mới (dongten.net)

    4/2014

    Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (76)

    Xin xem tiếp phần 4 :

    Tự độ và Tha độ trong Thiền Phật Giáo

    (Phản tỉnh cá nhân)

    CHÚ THÍCH

    [1] Thần Tú cũng là học trò thân cận của Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn nhưng so với Huệ Năng thì ông chưa đạt được cốt tủy Tự Tánh của Thiền Đạo nên không được truyền Y Bát và chủ yếu theo pháp Đại Thừa để tu hành. (Xem thêm Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm tựa thứ nhất).

    [2] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Định Huệ thứ tư, tr.33.

    [3] Pháp được hiểu là giáo lý rút ra từ Tự Tánh, diễn đạt bằng lời nói văn tự.

    [4] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Đốn Tiệm thứ tám, tr.76.

    [5] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.258-259

    [6] x. sđd, tr.321-381.

    [7] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.302-310.

    [8] x. sđd, tr.311-312.

    [9] Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.423.

    [10] Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.317-318.

    [11] Bức tranh thứ 10 của Thập Mục Ngưu Đồ theo Thiên Tông.

    Source: dong ten

    Read more »
RSS