Niệm Phật Đường
Welcome
Login / Register

Latest Articles


  • TÁM BÀI KỆ CHUYỂN HÓA TÂM

     

    TÁM BÀI KỆ CHUYỂN HÓA TÂM

    Eight Verses of Training the Mind
    by Geshe Langri Thangpa

    Tâm Bảo Đàn chuyển Việt ngữ
    nhân Pháp Hội do Đức Đạt Lai Lạt thuyết giảng vào tháng 10, 2014 tại Boston,

    ༄༅། །བློ་སྦྱོང་ཚིག་བརྒྱད་མ་བཞུགས་སོ། །

    བདག་ནི་སེམས་ཅན་ཐམས་ཅད་ལ། །
    ཡིད་བཞིན་ནོར་བུ་ལས་ལྷག་པའི། །
    དོན་མཆོག་སྒྲུབ་པའི་བསམ་པ་ཡིས། །
    རྟག་ཏུ་གཅེས་པར་འཛིན་པར་ཤོག །

    གང་དུ་སུ་དང་འགྲོགས་པའི་ཚེ། །
    བདག་ཉིད་ཀུན་ལས་དམན་བལྟ་ཞིང༌། །
    གཞན་ལ་བསམ་པ་ཐག་པ་ཡིས། །
    མཆོག་ཏུ་གཅེས་པར་འཛིན་པར་ཤོག །

    སྤྱོད་ལམ་ཀུན་ཏུ་རང་རྒྱུད་ལ། །
    རྟོག་ཅིང་ཉོན་མོངས་སྐྱེས་མ་ཐག །
    བདག་གཞན་མ་རུངས་བྱེད་པས་ན། །
    བཙན་ཐབས་གདོང་ནས་བཟློག་པར་ཤོག །

    རང་བཞིན་ངན་པའི་སེམས་ཅན་རྣམས། །
    སྡིག་སྡུག་དྲག་པོས་ནོན་མཐོང་ཚེ། །
    རིན་ཆེན་གཏེར་དང་འཕྲད་པ་བཞིན། །
    རྙེད་པར་དཀའ་བས་གཅེས་འཛིན་ཤོག །

    བདག་ལ་གཞན་གྱིས་ཕྲག་དོག་གིས། །
    གཤེ་བསྐུར་ལ་སོགས་མི་རིགས་པའི། །
    གྱོང་ཁ་རང་གིས་ལེན་པ་དང༌། །
    རྒྱལ་ཁ་གཞན་ལ་འབུལ་བར་ཤོག །

    གང་ལ་བདག་གིས་ཕན་བཏགས་པའི། །
    རེ་བ་ཆེ་བ་གང་ཞིག་གིས། །
    ཤིན་ཏུ་མི་རིགས་གནོད་བྱེད་ནའང༌། །
    བཤེས་གཉེན་དམ་པར་བལྟ་བར་ཤོག །

    མདོར་ན་དངོས་སམ་བརྒྱུད་པ་ཡིས། །
    ཕན་བདེ་མ་རྣམས་ཀུན་ལ་འབུལ། །
    མ་ཡི་གནོད་དང་སྡུག་བསྔལ་ཀུན། །
    གསང་བས་བདག་ལ་ལེན་པར་ཤོག །

    དེ་དག་ཀུན་ཀྱང་ཆོས་བརྒྱད་ཀྱི། །
    རྟོག་པའི་དྲི་མས་མ་སྦགས་ཤིང༌། །
    ཆོས་ཀུན་སྒྱུ་མར་ཤེས་པའི་བློས། །
    ཞེན་མེད་འཆིང་བ་ལས་གྲོལ་ཤོག །

    ཅེས་པ་འདི་ནི་དགེ་བཤེས་གླང་ཐང་པ་རྡོ་རྗེ་སེངྒེའི་གསུང་ངོ༌།། །།

    Read more »
  • Cửu phẩm vãng sanh A-di-đà tam-ma-địa tập đa-ra-ni kinh

     

    CỬU PHẨM VÃNG SANH
    A-di-đà tam-ma-địa tập đa-ra-ni kinh

    * Đời nhà Tấn, tại chùa Hưng Thiện, ngài Tam tạng sa-môn Đại Quảng Trí Bất Không dịch từ Phạn ra Hán văn.
    * Việt Nam, chùa Thiền Tịnh, sa-môn Thích Viên Đức dịch thành Việt van


    ăn.Bấy giờ, đức Tỳ-lô-giá-na Như Lai ở nơi Đại Tam-ma-địa môn tịnh xá cùng với các bậc đại Tỳ-khưu gồm tám vạn chín ngàn người đều câu hội đầy đủ, toàn là bậc đại A-la-hán, huệ thiện đầy đủ, việc cần làm đã làm xong, các vị ấy là: Thần lực Trí Biện Quán Thế Âm Bồ-tát, Đắc Đại Thế Bồ-tát, Thần Thông Tự Tại Vương Bồ-tát, Tĩnh Quang Vô Cấu Đà La Ni Bồ-tát, Đại Lực Phổ Văn Bồ-tát, Đại Trang Nghiêm Lực Bồ-tát, Vô Lượng Quang Bồ-tát, Huệ Thiện Huệ Phổ Quang Vương Bồ-tát. Những vị Đại Bồ-tát và đại chúng Thanh văn như vậy đi đến chỗ Phật, bạch rằng: "Tại Vô Lượng Thọ quốc có chín phẩm Tịnh Thức Tam-ma-địa. Đây tức là cảnh giới của chư Phật, nơi Như Lai đang an ở. Chư Phật ba đời đều y theo đó mà thành Chánh giác, cụ túc tam minh, tăng trưởng phước huệ. Chín phẩm ấy là:

    * Thượng Phẩm Thượng Sanh Chân Sắc Địa.

    * Thượng Phẩm Trung Sanh Vô Cấu Địa.

    * Thượng Phẩm Hạ Sanh Ly Cấu Địa.

    * Trung Phẩm Thượng Sanh Thiện Giác Địa.

    * Trung Phẩm Trung Sanh Minh Lực Địa.

    * Trung Phẩm Hạ Sanh Vô Lậu Địa.

    * Hạ Phẩm Thượng Sanh Chơn Giác Địa.

    * Hạ Phẩm Trung Sanh Hiền Giác Địa.

    * Hạ Phẩm Hạ Sanh Lạc Môn Địa.

    Đây gọi là Chín phẩm Tịnh Thức chơn như cảnh. Trong ấy có bảo tượng Nội tọa gồm 12 mạn-đà-la Đại Viên Cảnh Trí. Đó là:

    1 - Nhất Thiết Tam Đạt Vô Lượng Quang Phật
    2 - Biến Giác Tam Minh Vô Biên Quang Phật
    3 - Trí Đạo Tam Minh Vô Ngại Quang Phật
    4 - Lục Chơn Lý Trí Tam Minh Vô Đối Quang Phật
    5 - Sắc Thiện Tam Minh Quang Viêm Vương Quang Phật
    6 – Nhứt Giác Tam Minh Thanh Tịnh Quang Phật
    7 - Phổ Môn Tam Minh Hoan Hỷ Quang Phật
    8 - Nhập Huệ Tam Minh Trí Tuệ Quang Phật
    9 - Quang Sắc Tam Minh Bất Đoạn Quang Phật
    10 - Minh Đạt Tam Minh Nan Tư Quang Phật
    11 - Ngũ Đức Tam Minh Vô Xứng Quang Phật
    12 - Trí Lực Tam Minh Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật.

    Chư Phật Như Lai như vậy là Chơn sắc cụ túc, là Bi tướng sở y của tất cả ba đời Như Lai. Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy, xưng tán danh hiệu của 12 vị Quang Phật, tức vĩnh viễn ra khỏi nhà lửa trong ba cõi, quyết định sanh Chơn như, xa lìa Hữu lậu, vĩnh nhập Vô lậu.

    Nếu có người muốn nhập cảnh Tam-ma-địa ấy, để được đầy đủ Phật huệ, thân tâm trong sạch, thì hãy quán niệm Đại Tam-ma-da Phật tướng chơn ngôn thần chú:

    Án, A mật lật đá Đế tế Già lam Hùm.

    – Thiện nam tử, chơn ngôn Phạm chú nầy là tòa ngồi cứu cánh lý trí của tất cả mười phương ba đời Như Lai, là căn bản của 12 Không nguyện. Nếu đệ tử của ta muốn làm lợi lạc cho ba cõi nhơn thiên, hãy viết chép Kinh này mà thọ trì, đọc tụng sẽ tăng trưởng phước lạc, tăng ích trí tuệ, biện tài tăng trưởng, thọ mạng sắc lực, tiêu trừ nghiệp chướng, tiêu diệt vạn bệnh, tăng trưởng bi ái,sắc thiện đều đầy đủ. Huống là chí tâm biên chép, đọc tụng sẽ độ cho ba đời vô sanh thay đổi nhà lửa trong Tam giới. Đã tụng trì nhứt định vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ của cõi Cực Lạc.

    Bấy giờ, đại chúng nghe được lời Đức Phật đều đại hoan hỉ, tin thọ phụng hành

    Read more »
  • BỒ ĐỀ ĐẠO TRÀNG (BODH GAYA hay BODHGAYA)

     

    Bồ Đề Đạo Tràng - Ấn Độ (Bodh Gaya hay Bodhgaya) ở quận Gaya, bang Bihar, Ấn Độ. Nơi đây được gọi là đất Phật, vì ở đây là nơi đức Phật Thích Ca đã giác ngộ hơn 2.500 năm trước, là điểm hành hương mà các phật tử khắp nơi trên thế giới luôn ao ước được đến chiêm bái một lần trong đời.

    Đoàn chúng tôi giành hẳn một ngày để đến Bồ Đề Đạo Tràng đảnh lễ. Từ sáng sớm thầy Thích Trung Định - Trưởng đoàn, cô Tường Nghiêm - Phó đoàn đã đưa chúng tôi đến đây để chiêm bái. Thầy và cô đã mua y cà sa và mua cho chúng tôi mỗi người mấy bông hoa để cúng dường dâng lên Đức Phật.

    Tâm điểm ở Bodh Gaya là đền Mahabodhi (hay còn gọi là tháp Đại Giác). Đền cao 52m, bốn mặt được chạm  trổ rất tinh vi. Thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, vua Ashoka đã cho xây  một đền thờ Đức Phật tại đây. Đến thế kỷ thứ 7, các quốc vương triều đại  Pala ở xứ Bengal xây lại với quy mô lớn hơn. Vào thế kỷ 12, ngôi đền bị  phá hủy. Đến thế kỷ thứ 14, các quốc vương Myanmar (Miến Điện) khi kéo quân vào  đây đã khôi phục lại ngôi đền. Sau nhiều thế kỷ, đền Mahabodhi hứng chịu  nhiều trận lụt lớn và bị chôn vùi dưới lớp bùn đất. Mãi đến giữa thế kỷ 19, nhà khảo cổ học người Anh là Alexander Cunningham đứng ra chỉ đạo  khai quật và trùng tu lại đền Mahabodhi như hiện nay. Điều này cho chúng ta thấy rất rõ Đức Phật tổ cực kỳ linh thiêng nên không thể để mất ngôi đền Mahabodhi được.

    Đền được xây dựng theo hình chóp đứng 9 tầng. Cấu trúc nổi bật là vòm tháp, trên nền tháp chính có các tháp nhỏ ở 4 góc. Hình Đức Phật, hình Bồ-tát, các thần linh đều được chạm khắc vào các hốc tường theo truyền thống Đại thừa.

    Bên ngoài có khuôn viên rất rộng lớn để các nhà sư, các phật tử về đây lạy Đức Phật trong nhiều ngày, nhiều tháng từ sáng sớm đến tận khuya. Có một kiểu lạy toàn thân rất thành kính là: Mỗi người có một tấm ván rộng khoảng 1m, dài 2m. Trên ván khoảng giữa bụng và ngực có một chiếc khăn hoặc một vuông vải vòng qua tấm ván, hai bàn tay được lót hai cái khăn để khi trượt nằm úp sấp trên ván không bị ma sát làm đau rát hai bàn tay. Kiểu lạy này làm cả thân hình người lạy nằm sát ván nên rất trang nghiêm, vừa thể hiện sự trang trọng thành kính, vừa thể hiển nghị lực của người lạy Đức Phật.

    Khi vào trong đền, các Nhà sư, các Phật tử và cả du khách phải đến viếng một tảng đá to hình tròn đặt phía bên trái sân, trên mặt đá có hai dấu chân to - theo truyền thuyết là của Đức Phật. Bước vào trong đền, tất cả mọi người phải xếp hàng, làm lễ trước pho tượng Phật Thích Ca được mạ vàng đặt nơi chính điện. Tượng Phật cao 2m, đặt trên một bệ đá cao 6m, với nét mặt Phật rất thanh thản, có một ngón tay chỉ xuống đất, mặt tượng hướng về phía Đông.

    Phía sau đền Mahabodhi, có cây bồ đề linh thiêng nằm bên cạnh, cành lá rất xanh tươi được bao bọc bởi một vòng tường thấp bằng đá. Dưới bóng mát cây bồ đề là một phiến đá sa thạch đỏ, có tên là “Vajrasana” - đây được xem là ngai vàng kim cương vì đây là nơi Đức Phật đã từng ngồi thiền và đắc đạo. Theo truyền thuyếtcây bồ đề này mọc lên đúng vào ngày thái tử Sidharta ra đời, sau ngày Đức Phật nhập niết bàncây Bồ đề nguyên thủy mà Đức Phật ngồi bên để thành Đấng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác vẫn còn sống cho đến thời của Vua Asoka và được nhà Vua xây rào bảo vệ. Bên cạnh đó, nhà Vua cũng đã nhân rộng cây quý này bằng cách chiết các nhánh của nó gửi đến những địa điểm khác trên cả nước. Vì rất sùng kính đức Phật, vua Asoka chăm sóc cây Bồ đề này rất cẩn thận, hàng ngày nhà Vua đến thăm cây Bồ đề xem như Đức Phật vẫn ở đây. Vì thế nhà Vua xem cây Bồ đề như một báu vật quốc gia. Do lòng ghen tỵ, quý phi của nhà vua là bà Tissarakkhā đã sai người lén chặt cây Bồ-đề và thiêu hủy nó. Thầy Thích Trung Định cũng nói cho đoàn chúng tôi biết: “Theo lời nguyền của Vua Asoka cây Bồ đề thứ 2 này mọc ra từ mầm nhú lên từ gốc của cây bị chặt”.

    Nhưng Cây Bồ đề thứ hai đã bị phá vào thế kỷ thứ 2 trước công nguyên trong cuộc bức hại Phật giáo của vua Pushyamitra Shunga. Sau đó, cây bồ đề đã được trồng lại.

    Nhưng rồi cây Bồ đề thứ ba này lại bị tàn phá vào khoảng năm 600, do vua Sasanka xứ Ganda (Bengal, trị vì 590 - 625) đã ra lệnh. Vì ông Vua Sasanka theo ngoại đạo nên không thích Phật giáo, nên Ông đã truyền lệnh chặt cây Bồ đề thiêng này đồng thời đem đốt toàn bộ gốc rễ. Khi nghe tin, vua Purnavarama (Phú Lâu Na Bạt Ma) của Maghada (Ma kiệt đà), người nối dõi cuối cùng của vua Asoka đã vật mình xuống đất vì đau buồn, ông than thở: "Mặt trời của trí tuệ đã lặn, không còn gì để lại ngoài cội Bồ đề, và ngay cả nó ngày nay cũng đã bị hủy diệt, nơi nào sẽ cung cấp cho nguồn sống tâm linh”. Năm 620, vua Purnavarma đã cho trồng lại cây Bồ đềNgoài ra, vua còn cho xây bức tường cao hơn 7m để tránh kẻ xấu tàn phá cây Bồ đề. Chính cây Bồ đề này đã được Trần Huyền Trang (Đường Tam Tạngmô tả trong nhật ký khi ông đến thăm nơi đây.

    Vào khoảng 600 năm sau, cây Bồ đề thứ tư lại bị phá do quân đội Hồi giáo của Muhammad Bakhtiyar Khalji đã xâm chiếm Ấn Độ, lực lượng này đã xua quân phá hủy toàn bộ các Thánh tích Phật giáo, trong đó có cả đền Mahabodhi và cây Bồ đề thiêng liêng. Mặc dù vậy, cây Bồ đề lại tiếp tục hồi sinh. Ngay nơi gốc cây đã bị tàn phá, một chồi non đã nhú lên và phát triển nhanh chóng, cành lá sum suê. Điều này lại càng khẳng định Đức Phật tổ của chúng ta cực kỳ linh thiêng, nên cây Bồ đề và ngôi đền Mahabodhi không thể tàn phá được.

    Vào đầu thập niên 1870, cây Bồ đề thứ năm đã bị khô chết, đặc biệt trong trận bão năm 1876, cây Bồ đề đã bị đổ. Nhưng đến năm 1881, ngài Alexander Cunningham người Anh đã sử dụng hạt giống từ cây Bồ đề thứ năm đã trồng lại chính nơi cây gốc Bồ đề đã từng ở đó. Về sau ở nơi đó, chồi non lại tiếp tục nảy nở và phát triển, kế thừa từ mạch sống của cây Bồ đề tổ tiên. Cội Bồ đề này đã lớn lên và phát triển đến ngày nay.

     

    Ngoài ra, một cành chiết từ cây bồ đề nguyên thủy đã được Vua Asoka gửi tặng cho Vua Devanampiya Tissa (Thiên Ái Đế Tu) tại Sri Lanka vào năm 247 trước Tây lịch. Con gái của nhà Vua Asoka là Tỳ kheo ni Sanghamitta (Tăng-già-mật-đa) đã sang Sri Lanka với mục đích thành lập ni đoàn Phật giáo đã mang nhánh Bồ đề này từ Sri Lanka, đem đến trồng ở Anuradhapura, tại đây nó đã phát triển thành một cây to. Sau này người dân Sri Lanka đã gọi cây Bồ đề này là "Sri - Maha Bodhi", nghĩa là "Cây Bồ Đề Vĩ Đại Cát Tường". Cho tới nay, trải qua gần 2.300 năm, Cây Bồ Đề Vĩ Đại Cát Tường vẫn sống tươi tốt và được người Sri Lanka coi là quốc bảo. Rất nhiều nhánh từ cây này đã được chiết để gửi đi trồng ở chùa chiền khắp nơi trên thế giới.

    Như vậy, cùng chung với số phận thăng trầm của lịch sử Phật giáo ở Ấn Độcây Bồ đề cũng đã nhiều lần bị chặt đốt, thiêu hủy do thiên tai vô thường tác động và do những người muốn xóa tan vết tích của nó. Thế nhưng trải qua bao nguy khốn, dòng dõi hậu duệ của cây Bồ đề vẫn không bị tuyệt diệt, mà vẫn tiếp tục bám trụ và đâm chồi nảy lộc, đời sau nối tiếp đời trước che bóng mát cho nơi Đức Phật đã ngồi khi thành Đấng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Mặc dù trải qua nhiều lần sinh diệt, nhưng vị trí cây Bồ đề ngày hôm nay so với gốc cây ban đầu vẫn không có sự thay đổi chuyển dịch, vẫn định vị như gốc cây Bồ đề nguyên thủy, nơi khoảng 2.600 năm về trước, thái tử Tất Đạt Đa đã giác ngộ thành Phật. Với lịch sử hiển hách này, có thể nói cây Bồ đề là biểu tượng cao cả cho những tín đồ Phật giáo đã truyền đời nhau suốt 2.600 năm bảo tồn Chánh pháp mà Phật Thích Ca truyền dạy cho thế gian. Đã nhiều lần bị chặt phá do những kẻ vô thần, do thiên nhiên và được mọc lại. Cây bồ đề hiện nay được chiết ra từ cây bồ đề ở Sri Lanka - vốn đây là một nhánh của cây nguyên thủy được đưa sang trồng ở Sri Lanka từ thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Tuy chỉ là “hậu duệ” của cây Bồ đề đầu tiên, nhưng cây này cũng đã thành một đại thụ mấy trăm năm tuổi, gốc cây to khoảng 3 - 4 người ôm. Chung quanh cây bồ đề, các nhà sư, các Phật tử và cả du khách ngồi chắp tay nghiêm trang khấn niệm. Một cơn gió thoảng qua, vài chiếc lá bồ đề rơi xuống, nhiều khách hành hương kính cẩn nhặt lên với niềm tin đó là phước lành mà Đức Phật đã ban cho.

    Thành phố Bodh Gaya ngày nay thường được ví là một “Liên Hợp Quốc Phật tự” vì tập trung rất nhiều chùa của các quốc gia và lãnh thổ như Bhutan, Đài Loan, Myanmar, Nepal, Nhật Bản, Sri Lanka, Tây Tạng, Thái Lan, Trung QuốcViệt Nam... Một trong những ngôi chùa nổi bật nhất là chùa Nhật Bản. Các vị sư người Nhật đã xây dựng ngôi chùa cùng với tượng đức Phật Thích Ca ngồi, có chiều cao khoảng 20m, xung quanh là tượng mười vị đại đệ tử của Đức Phật, có kích thước như người thật, mỗi vị mang một dáng vẻ và khuôn mặt khác nhau.

    Gần đó là ngôi chùa do người Thái Lan xây dựng với mái cong vút, nhiều hoa văn chạm trổ rất công phu và được mạ vàng sáng chói trong ánh nắng.

    Chùa Trung Quốc có ba tượng Phật ngồi kích cỡ lớn cùng với hình ảnh Vạn Phật khắc trên khắp bốn bức tường.

    Phật giáo Tây Tạng có nhiều trường phái khác nhau và ngôi chùa tại Bodh Gaya thuộc phái Kagyupa. Theo lời kể của người địa phương đây là công trình cúng dường của một ông vua dầu hỏa Trung Đông. Ông đã bỏ ra gần 2 triệu USD xây dựng để tạ ơn vị sư Tây Tạng đã chữa bệnh nan y cho mình.

    Các chùa khác như của Bhutan, Đài Loan, Myanmar, Sri Lanka... mỗi ngôi đều mang một vẻ độc đáo riêng với lối kiến trúc đặc thù theo truyền thống Phật giáo của từng nước.

    Việt Nam cũng có 4 chùa tại đây. Đó là Việt Nam Phật Quốc tự của thầy Huyền Diệu, chùa Độ Sanh của một nhà tu hành người Mỹ gốc Việt, chùa Viên Giác của một nhà tu hành người Đức gốc Việt và tịnh xá Kỳ Hoàn của thầy Thích Giác Viên đến từ Vũng Tàu.

    Ngôi chùa Việt Nam Phật Quốc Tự do thầy Huyền Diệu, được khá nhiều Phật tử trong và ngoài nước biết đến với biệt danh khiêm xưng “Người làm vườn kiêm quét chùa”, xây dựng và trụ trì. Đoàn chúng tôi đã đươc thầy Thích Trung Định đưa tới đây; sau khi đãnh lễ, rất may chúng tôi đã được thầy Huyền Diệu gặp và nói chuyện, thầy còn mời chúng tôi ngày hôm sau đến ăn cơm do tự tay thầy nấu. Khi chia tay thầy ra về thầy Huyền Diệu tặng cho đoàn chúng tôi mỗi người một bản “Kinh đại phúc đức” hay Mahamangala Sutta - đây là một một trong những đoạn kinh rất quan trọng trong Tam Tạng kinh điển mà Phật Thích Ca đã thuyết pháp độ sinh.

    Ra về thầy Thích Trung Định nói với chúng tôi: “Khi còn đang học tiến sỹ tại Ấn Độ đã nhiều lần thầy đến thăm viếng thầy Huyền Diệu mà không gặp, hôm nay đoàn ta được gặp thầy Huyền Diệu lại được nghe thầy nói chuyện, mời đến ăn cơm và tặng kinh đó là cơ duyên rất lớn của đoàn ta”.

    Cách Bodh Gaya khoảng 200m về hướng Đông là một con sông cạn chạy dài dọc theo hướng Đông Bắc - Tây Nam được người dân địa phương gọi là sông Lilajan, tức là sông Ni Liên Thiền (Niranjara). Chính phủ Ấn Độ đã bắc một cây cầu ngang sông này, các Nhà sưPhật tử và du khách rất dễ dàng qua lại các khu Phật tích quanh vùng Bodh Gaya. Từ trên cầu có thể nhìn thấy được một số Phật tích như: chót đền Mahabodhi, núi Tượng đầu - nơi Đức Phật từng tu khổ hạnh trong 6 năm... và sinh hoạt của toàn thể cư dân quanh vùng.

    Source TVHS

    Read more »
  • 3 Phút Thiền Định | Tâm Trí Thoải Mái

     

    Welcome to 3-Minute Meditations!

    Get ready to experience the simplest, gentlest 28-day jumpstart to the life-changing practice of meditation for beginners. I'm going to teach you the number one secret to have more peace, tranquility, and balance in your life. It is doable, realistic, time-friendly and all-inclusive and will provide you with physical, mental and emotional harmony.

    More Information, please click here

    Read more »
  • LỜI KHUYÊN CHO MỘT HÀNH GIẢ ĐANG HẤP HỐI

     

    LỜI KHUYÊN CHO MỘT HÀNH GIẢ ĐANG HẤP HỐI
    Dodrupchen Jigme Tenpe Nyima[1] soạn
    Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ

    Bạn cần tiến hành những chuẩn bị trước thời điểm cái chết xảy đến. Có nhiều khía cạnh liên quan đến điều này, nhưng ở đây, tôi sẽ không đi vào chi tiết quá nhiều. Nói ngắn gọn thì đây là điều mà bạn cần làm khi bạn tiến gần đến thời điểm chết.

    Hãy tự nhủ nhiều lần rằng: “Dù cái chết xảy đến sớm hay muộn, rốt ráo thì không có lựa chọn nào khác ngoài từ bỏ thân này cùng tất cả tài sản của tôi. Toàn bộ thế giới đều như vậy”. Suy nghĩ theo những dòng trên, hãy cắt đứt hoàn toàn gông cùm của ham muốn và tham luyến. Hãy sám hối mọi hành động gây hại mà bạn đã phạm phải trong đời này và mọi đời khác của bạn, cũng như bất kỳ sa sút hay vi phạm giới luật nào mà bạn có thể đã gây ra, vô tình hay cố ý và lặp đi lặp lại việc thề không bao giờ hành xử theo cách như vậy trong tương lai.

    Đừng bao giờ lo âu hay sợ hãi về cái chết. Thay vào đó, hãy cố gắng cải thiện tâm trạng và trưởng dưỡng một nhận thức hoan hỷ rõ ràng, nhớ về mọi điều tích cực, thiện lành mà bạn đã làm trong quá khứ. Không cảm thấy bất kỳ dấu vết nào của kiêu căng ngạo mạn, hãy tôn vinh những thành tựu của bạn nhiều lần. Hãy hồi hướng tất cả công đức của bạn và phát nguyện nhiều lần, để trong mọi đời tương lai, bạn có thể thấu triệt toàn bộ con đường của tối thượng thừa, với sự dẫn dắt của một thiện tri thức tâm linh thiện lành và với những phẩm tính như niềm tintinh tấntrí tuệ và tận tâm – nói cách khác, tất cả những hoàn cảnh hoàn hảo nhất, cả trong lẫn ngoài.

    Các bản văn Luật Tạng Vinaya giải thích rằng một trong những nguyên nhân căn bản để có một hình tướng tái sinh thù thắng, ví dụ là một vị sống đời kỷ luật trước sự hiện diện của Đức Phật, là phát những lời cầu nguyện và mong ước vào lúc chết. Đó là lý do người ta nói rằng ‘bất cứ điều gì gần nhất và bất cứ điều gì quen thuộc nhất’ sẽ có sức mạnh lớn lao[2].

    Bất kỳ mong ước nào mà bạn phát khởi đều cần có một sự thúc đẩy bổ sung bằng cách quyết tâm thề như thế này: “Trong mọi đời của tôi, tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để rèn luyện trên con đường của tính Không với lòng bi mẫn chính là tinh túy!”. Để trân trọng tầm quan trọng của điều này, hãy xem xét mức độ hiệu quả hơn khi mạnh mẽ nói với bản thân, “Tôi sẽ thức dậy vào sáng sớm!” thay vì chỉ đơn giản phát nguyện “Mong tôi có thể dậy sớm!”.

     

    Để hoàn thành một cách dễ dàng hơn bất cứ lời cầu nguyện nào mà bạn đã phát khởi hay những ý định mà bạn đã hình thành, sẽ vô cùng lợi lạc nếu nương tựa một hiện thân của sức mạnh tâm linh. Vì thế, hãy nhớ về vị mà bạn có lòng sùng mộ lớn lao nhất hay người mà bạn cảm thấy kết nối sâu sắc nhất nhờ sự hành trì, dù đó là đạo sư vinh quang và vĩ đại xứ Oddiyana – Guru Rinpoche hay Thánh Quán Thế Âm – Thế Gian Tự Tại và với sự xác quyết tin tưởng rằng Ngài chính là hiện thân của tất cả cội nguồn quy y quý báunhất tâm cầu nguyện vì sự viên thành của những mong ước.

    Vào thời điểm cái chết thực sự xảy ra, sẽ thật khó để gom góp đủ sức mạnh của tâm để thiền định về thứ gì đó mới mẻ hay xa lạ – đấy là lý do bạn phải lựa chọn một thiền định thích hợp trước và rèn luyện cho đến khi quen thuộc. Sau đấy, khi bạn qua đời, bạn cần dồn hết những ý nghĩ của bạn cho thiền định đó, càng nhiều càng tốt, dù đó là nhớ về Đức Phật, tập trung vào cảm xúc bi mẫn, trưởng dưỡng tri kiến tính Không hay nhớ Giáo Pháp hoặc Tăng đoàn. Để điều này xảy ra thành công, điều cũng rất quan trọng là bạn rèn luyện bản thân trước để nghĩ rằng, “Từ nay trở đi, khi tôi trải qua thời khắc then chốt của cái chết, tôi sẽ không cho phép bất kỳ ý nghĩ tiêu cực nào thâm nhập vào tâm”.

    Chư Thánh quá khứ có câu nói rằng, “Chỉ một ngày làm thiện với sự sáng suốt tinh thần thì tốt hơn so với rất nhiều hoạt động thiện lành được tiến hành với tâm mê mờ và che chướng”. Như điều này chỉ ra, nếu bạn thực hành tất cả những điều này khi mà trước tiên đã nỗ lực hết sức để phát triển nhận thức hứng khởi và hoan hỷ, sẽ hữu hiệu hơn rất nhiều.

    Mặc dù thật khó để người như tôi làm lợi lạc chúng sinh khác, tôi sẽ trì tụng những đoạn kệ quy y và cầu nguyện rằng trong mọi đời tương lai, các bạn có thể đi theo giáo lý Đại thừa.

    Được viết bởi vị gọi là Vô Úy (Jigme).

    Trích TVHS

     

    Nguồn Anh ngữ: Advice for a Dying Practitioner (https://www.lotsawahouse.org/tibetan-masters/dodrupchen-III/advice-dying-practitioner).

    Adam Pearcey chuyển dịch Tạng-Anh năm 2006 nhằm tưởng nhớ Ian Maxwell.

    Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



    [1] Theo Rigpawiki, Dodrupchen Jigme Tenpe Nyima, vị Dodrupchen Rinpoche thứ ba (1865-1926) – một trong những đạo sư Tây Tạng xuất sắc nhất thời ấy và là đạo sư của nhiều đạo sư vĩ đại, bao gồm Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro. Ngài được Đức Dalai Lama vô cùng kính trọng, vị gọi Ngài là “học giả vĩ đại và Yogi xuất chúng”. Các trước tác của Ngài là một trong những cội nguồn chính yếu được Đức Dalai Lama sử dụng trong các nghiên cứu cá nhân về Đại Viên Mãn Dzogchen và Đức Dalai Lama thường xuyên trích dẫn Ngài trong lúc giảng dạy.

    [2] Nói cách khác, những ý nghĩ mà chúng ta có vào thời khắc gần cái chết nhất và những gì mà chúng ta đã quen thuộc nhất trong đời sẽ có ảnh hưởng lớn nhất trong việc quyết định sự tái sinh của chúng ta.

    Read more »
RSS