Niệm Phật Đường
Welcome
Login / Register

Search Results: thien-dinh


  • Cửa THIỀN Tây Tạng

    Dưới đây là hai bản dịch về Thiền tập dựa theo truyền thống Tây Tạng.

    Hai bản văn này đang được phổ biến rộng rãi trong giới Phật Tử Tây Phương để đáp ứng nhu cầu Thiền tập. Các pháp tu dưới đây tuy được viết từ truyền thống Tây Tạng nhưng thực sự cũng đã ẩn tàng trong nhiều truyền thống Thiền tập khác của Phật Giáo.

    Bản văn đầu tiên là của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma.

    Bản văn thứ nhì là của Kadampa, một tông phái Tây Tạng đang có hơn 700 tự viện tại 36 quốc gia.

    1. Hướng Dẫn Thiền Tây Tạng

    "Tibetan Meditation Instructions" là một bản văn cô đọng về Thiền Tây Tạng do Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đời 14 viết cho ấn bản điện tử của Tricycle, một tạp chí Phật Giáo tại Hoa Kỳ. Nơi đây, ngài nói về pháp thiền này là hãy để tâm vào trạng thái tự nhiên, và hãy quán sát tâm này - mà tâm là một thực thể, theo ngài, có tánh sáng và tánh biết, nơi đó bất kỳ những pháp gì, hiện tượng gì, sự kiện gì trong thế giới xuất hiện với chúng ta cũng đều qua nhận biết của thức. Khi ngồi, tóm gọn, chỉ để tâm thả lỏng tự nhiên và nhìn vào tâm này, dần dần sẽ thấy bản tánh của tâm.

    (Bắt đầu bản văn)

    Trước tiên, hãy sửa soạn tư thế của bạn: xếp chân ở vị trí thoải mái nhất; xương sống thẳng như mũi tên. Ðặt hai bàn tay vào thế quân bình, khoảng cách chiều rộng bốn ngón tay dưới rún, với bàn tay trái ở dưới, bàn tay phải đặt trên, và các ngón cái chạm nhau để thành một hình tam giác. Tư thế này của các bàn tay có liên hệ với chỗ trong cơ thể, nơi nội nhiệt khởi lên. Nghiêng cổ xuống chút xíu, để miệng và răng như bình thường, với đầu lưỡi chạm vào vòm trên của miệng gần các răng phía trên. Hướng mắt nhìn xuống thả lỏng - không cần thiết phải nhìn vào chóp mũi; mắt có thể hướng về sàn nhà phía trước chỗ bạn ngồi, nếu điều này tự nhiên hơn. Ðừng mở mắt quá lớn mà cũng đừng nhắm mắt; hãy để mắt mở hé chút xíu. Ðôi khi mắt sẽ khép lại tự nhiên; thế cũng được. Ngay cả nếu mắt đang mở, khi ý thức chú tâm đều đặn vào đối tượng, các hiện tướng của nhãn thức sẽ không quấy rối bạn.

    Với những người mang kính, bạn có ghi nhận rằng khi gỡ kính ra, bởi vì mắt thấy ít rõ ràng cho nên sẽ ít cơ nguy hơn từ sự sinh khởi kích động, trong khi có thêm cơ nguy của sự lơi lỏng? Bạn có thấy có dị biệt giữa việc hướng mặt vào tường và không hướng vào tường? Khi hướng vào tường, bạn có thể thấy là có ít cơ nguy của sự kích động hay tán tâm? Qua kinh nghiệm, bạn sẽ quyết định sao cho thoải mái, dễ an tâm...

    Hãy cố gắng để tâm trong trạng thái tự nhiên một cách sinh động, không nghĩ gì về chuyện quá khứ hay về chuyện bạn tính làm trong tương lai, không khởi lên bất kỳ một khái niệm nào. Ý thức của bạn đang ở nơi đâu? Nó [ý thức] đang ở với đôi mắt hay ở đâu? Nhiều phần, bạn sẽ cảm thấy nó [ý thức] liên kết với đôi mắt, bởi vì chúng ta khởi lên hầu hết nhận thức về thế giới này là xuyên qua mắt thấy. Ðiều này là do dựa quá nhiều vào cảm thức của chúng ta. Tuy nhiên, sự hiện hữu của một ý thức riêng biệt có thể biết chắc được; thí dụ, khi chú tâm hướng về âm thanh, thì những gì xuất hiện qua nhãn thức không được ghi nhận. Như thế cho thấy một ý thức riêng biệt đang chuyên chú hơn vào âm thanh nghe qua nhĩ thức, hơn là ảnh của nhãn thức.

    Với tu tập kiên trì, ý thức có thể được nhận ra hay được cảm nhận như một thực thể của ánh sáng thuần khiết và của tánh biết, mà đối với nó bất kỳ thứ gì cũng có khả năng để xuất hiện ra, và nó [ý thức], khi các điều kiện thích nghi hội đủ, có thể được sinh khởi trong hình ảnh của bất kỳ đối tượng nào. Khi nào mà tâm không đối phó với khái niệm về ngoại cảnh, tâm sẽ an trú rỗng không mà không có gì xuất hiện trong nó, hệt như nước trong. Thực thể của nó [tâm] là thực thể của kinh nghiệm thuần túy. Hãy để tâm trôi chảy tự nhiên mà đừng phủ lên khái niệm nào. Hãy để tâm an nghỉ trong trạng thái tự nhiên của nó, và quan sát nó. Lúc đầu, khi bạn chưa quen với pháp này, nó thật là khó, nhưng dần dần tâm xuất hiện như nước trong. Rồi thì, hãy hãy an trú với tâm không bị thêu dệt này, mà đừng để khái niệm nào sinh khởi. Khi chứng ngộ bản tánh của tâm, chúng ta sẽ lần đầu tiên định vị được đối tượng của quan sát của loại thiền nội quan này.

    Thời gian tốt nhất để tập pháp thiền này là vào buổi sáng, tại một nơi im vắng, khi tâm rất trong suốt và tỉnh táo. Ðêm trước đó, nhớ đừng ăn nhiều quá hay ngủ nhiều quá; như thế sẽ làm cho tâm nhẹ hơn và nhạy bén hơn vào buổi sáng kế tiếp. Dân dần, tâm sẽ trở nên càng lúc càng an bình; sự tỉnh thức và trí nhớ sẽ trở thành rõ ràng hơn.

    (Hết bản văn)

       

    2. Pháp Thở Ðơn Giản

    Bản Anh ngữ "A Simple Breathing Meditation" là một cẩm nang về bước đầu tập thiền của Kadampa, một tông phái Tây Tạng đang có hơn 700 tự viện tại 36 quốc gia. Nguyên khởi, Ðại sư Atisha (982-1054) từ Ấn Ðộ sang Tây Tạng, đã sáng lập tông phái Kadampa, với pháp tu Lamrim, chuyển hóa tất cả mọi hoạt động thường ngày vào con đường chứng ngộ giải thoát. Pháp Thở Ðơn Giản là bước đầu thiền tập, và có thể dùng cho mọi truyền thống khác.

    (Bắt đầu bản văn)

    Giai đoạn đầu tiên của thiền là ngưng loạn tâm, và làm tâm chúng ta trong trẻo hơn, sáng tỏ hơn. Ðiều này có thể thành tựu bằng cách tập pháp thở đơn giản. Chúng ta chọn một nơi im vắng để thiền tập, và ngồi trong một tư thế thoải mái. Chúng ta có thể ngồi trong tư thế tréo chân truyền thống, hay trong bất kỳ tư thế nào khác mà mình thấy thoải mái. Nếu muốn, chúng ta có thể ngồi ghế. Ðiều quan trọng nhất là giữ lưng cho thẳng để giữ tâm khỏi bị buồn ngủ hay trì trệ.

    Chúng ta ngồi với hai mắt khép một chút thôi, và chú tâm vào hơi thở. Chúng ta thở tự nhiên, tốt nhất là thở qua lỗ mũi, đừng tìm cách kiểm soát hơi thở, và chúng ta chú tâm vào cảm thọ về hơi thở khi hơi thở vào và ra hai lỗ mũi. Cảm thọ này là đối tượng thiền tập của chúng ta. Chúng ta nên cố gắng tập trung vào nó, và gác bỏ mọi thứ khác.

    Thoạt tiên, tâm chúng ta sẽ rất bận rộn, thậm chí có thể cảm thấy rằng thiền tập đang làm cho tâm chúng ta bận rộn hơn, nhưng trên thực tế chúng ta chỉ đang ý thức hơn về mức độ bận rộn biến chuyển mà tâm chúng ta đang thực sự hiện hành. Sẽ có một sức lôi cuốn lớn để dẫn [chúng ta] theo các niệm khác nhau khi nó hiện khởi, nhưng chúng ta nên chống lại [lôi cuốn đó] và cứ tập trung nhất tâm vào cảm thọ về hơi thở. Nếu chúng ta thấy là tâm chúng ta lang thang và chạy theo các niệm, chúng ta nên tức khắc trở về với hơi thở. Chúng ta hãy làm thế liên tục khi cần thiết, cho tới khi tâm an trú vào hơi thở.

    Nếu chúng ta kiên nhẫn tập cách này, dần dần các niệm lung tung sẽ lắng xuống và chúng ta sẽ kinh nghiệm một cảm thọ về sự an tĩnh trong tâm và sự thư giãn. Tâm chúng ta sẽ cảm thấy sáng rõ và như rộng lớn bát ngát, và chúng ta sẽ cảm thấy như được tươi mới. Khi biển dậy sóng, cặn sẽ cuốn lên và nước sẽ đục ngầu, nhưng khi gió êm thì bùn dần dần lắng xuống và nước nhìn rõ trong suốt. Tương tự, khi dòng niệm không ngừng tuôn của chúng ta được an tĩnh nhờ tập trung vào hơi thở, tâm chúng ta sẽ trở thành trong suốt và sáng tỏ dị thường. Chúng ta nên ở trong trạng thái an tĩnh tâm thức này một thời gian.

    Mặc dù thiền tập hơi thở chỉ là bước đầu thiền tập, nó có thể rất là mãnh liệt. Chúng ta có thể thấy từ pháp tu này là chúng ta có thể đạt được an tĩnh nội tâm và sự an lạc chỉ bằng cách kiểm soát tâm, mà không dựa vào bất kỳ điều kiện bên ngoài nào. Khi dòng niệm lắng xuống, và tâm chúng ta tịch tĩnh, một niềm hạnh phúc sâu thẳm và sự an lạc tự nhiên khởi lên. Cảm thọ về sự an lạc và sự sung mãn giúp chúng ta đối phó với sự bận rộn và khó khăn của đời sống thường nhật. Quá nhiều căng thẳng thường đến từ tâm chúng ta, và nhiều vấn đề chúng ta trải qua, kể cả bệnh hoạn, gây ra hay bị làm trầm trọng thêm bởi sự căng thẳng này. Chỉ bằng cách thiền tập hơi thở trong 10 hay 15 phút mỗi ngày, chúng ta sẽ có thể giảm sự căng thẳng. Chúng ta sẽ kinh nghiệm một cảm thọ tịch tĩnh, bao la bát ngát trong tâm, và nhiều vấn đề thường gặp của chúng ta sẽ biến mất. Các hoàn cảnh gian nan sẽ dễ dàng hơn để đối phó, chúng ta sẽ tự nhiên cảm thấy nồng ấm và cởi mở với người khác, và quan hệ của chúng ta với người khác sẽ dần dần thăng tiến.

    Đừng tìm về quá khứ
    Đừng tưởng tới tương lai
    Quá khứ đã không còn
    Tương lai thì chưa tới
    Hãy quán chiếu sự sống
    Trong giờ phút hiện tại
    Kẻ thức giả an trú
    Vững chãi và thảnh thơị
    Phải tinh tiến hôm nay
    Kẻo ngày mai không kịp
    Cái chết đến bất ngờ
    Không thể nào mặc cả.
    Người nào biết an trú
    Đêm ngày trong chánh niệm
    Thì Mâu Ni gọi là
    Người Biết Sống Một Mình.

    Read more »
  • Thực Tập Thiền Định Lợi Ích Gì?. Sự Nguy Hiểm Như Thế Nào?

    THIỀN ĐỊNH

    Cuộc sống quá nhiều phiền nảo, vào thời đại này, thường khi gà gáy thức dạy đã lo suy nghĩ hôm nay phải làm gì?. Nói chung suốt ngày chỉ chạy quanh trong vòng lẫn quẫn Tiền, Danh Vọng, Ái Dục...Thật đáng tiếc một kiếp sống có được thân người hoàn hảo. Tại sao hành giả không tìm một con đường tốt đẹp hơn cái vòng lẫn quẫn ở trên, biết đâu khám phá được sự AN LẠC HIỆN TẠI và VỊ LAI.

    Thiền định cũng là phương pháp đưa đến con đường CHÂN THIỆN MỸ. Tại sao chúng ta không thử TÌM HIỂU qua nhiều phương tiện đễ THỰC HÀNH cho đời sống tốt đẹp hơn và trí tuệ phát triển đến chổ thâm sâu...

    Nói về cách thực hành thiền định từ xưa đến nay có rất nhiều phương cách trong cỏi giới hữu vi cũng như vô vi, tuy nhiên con đường đưa đến sư AN LẠC chỉ có một phương pháp đó là NHƯ LAI THIỀN ( Giới-Định-Huệ). Ngoài con đường này tất cả sự thực hành sẽ LẠC VÀO MA ĐẠO, hành giả trước khi dấn thân vào con đường thực tập nên tìm một vị THẦY có đầy đủ Đại Bi Tâm, vị thầy ấy thường có đức tính NHẪN NHỤC, KHOAN DUNG, TRÍ TUỆ thông suốt hữu vi và vô vi...Thường có thể là một cao tăng hay tiểu tăng hay là Bồ Tát hóa thân đi giữa cuộc đời giống như chúng ta. Hành giả phải khéo léo phát Đai Bi Tâm làm lợi ích chúng sanh, chắc chắn sẽ gặp...Thời Mạt Pháp rất khó gặp những vị THẦY có đầy đủ phương tiện giúp hành giả đạt đến CHƠN PHÁP. Trong lúc chờ đợi mỗi mỗi hành giả nên lợi dụng thời gian và không gian có được thân GIẢ HỢP thực hành theo phương pháp đơn sơ dưới đây.

    1-Luôn ý thức KHÔNG SÁT SANH (12 loài)
    2-Phát Đại Bi Tâm Gặp một vị thầy
    3-Học Kinh Viên Giác, để hiểu thế nào là Hữu vi Tâm và CHƠN TÂM
    4-Cố gắng ĂN CHAY càng nhiều càng tốt, bớt THỊT CÁ lại trong mỗi buổi ăn
    5-Mỗi ngày phải dành 3 tiếng ngồi THIỀN
    6-Học 1 trong 12 Bộ Kinh Đại Thừa, Tùy TÂM hành giả ưa thích
    7-Nguyện khi Đạt đến CHƠN TÂM sẽ PHỔ ĐỘ VÔ LƯỢNG CHÚNG SANH. Muốn thông suốt điều này phải thực hành Bố Thí qua THÂN KHẨU Ý.

    Trong 7 điều này hành giả luôn luôn thực hành mỗi ngày, cho dù có nhiều vấn đề phải làm trong ngày, nhưng phải cố gắng...và ý thức nếu không lợi dụng thân này thực tập CHƠN PHÁP, chắc chắn hiện tại và vi lai tùy nhân duyên THIỆN ÁC sẽ có thân mới trong 3 còi KHỔ VÔ CÙNG...

    Điều quan trọng trên bước đường thực hành pháp, hành giả luôn luôn phát Đai Bi Tâm mong muốn gặp một vị THẦY ngay trong kiếp làm người. Vị Thầy rất quan trọng hướng dẫn sự thực tập từ khi bắt đầu hành giả dấn thân tìm sự AN LẠC, cho nên đừng bỏ qua cửa ải này.

    Mỗi một hành giả tùy theo Hạt Giống Bồ Đề gieo tròng nhiều kiếp quá khứ và hiện tại, nhân duyên hội đủ sẽ tùy phương tiện thực hành pháp, ví dụ con đường thực hành gồm có HIỂN hay MẬT THỪA, cả hai con đường đều dưa đến kết quả HẠNH PHÚC AN LẠC ngay trong kiếp sống hiện tại và vị lai, xa hơn nữa hành giả trở về với mái nhà xưa. ( CHƠN TÂM THƯỜNG TRÚ...hay Phật Tánh đã có sẳn v.v...).

    1- Nói về HIỂN, sự thực hành được đặc trên NỀN TẢNG gieo NHÂN THIỆN trải qua nhiều số kiếp khi thuần tục thì CHƠN TÂM THƯỜNG TRÚ mới hiển lộ...Thường thì hành giả có thể thấy qua cuộc sống thế gian những vị xuất gia theo con đường TIỂU THỪA, THANH VĂN THỪA hay BỒ TÁT THỪA...Phương pháp chuyển hóa THÂN TÂM phải theo thứ tự, mới có kết quả thành tựu.

    2-Con đường MẤT THỪA, dựa trên NỀN TẢNG là mỗi mỗi một hành giả đã có sẳn CHƠN TÂM THƯỜNG TRÚ ( Tâm Phật v.v...)...Sở dỉ không nhận diện đươc một cách CHƠN NHƯ PHÁP GIỚI. Bởi vì sự huân tập, hữu vi tâm NHÌN SAI LAC hay nói một cách MẮT MÙ, nhưng tường rằng, tất cả thế gian, cũng như cảnh giới VÔ VI là THẬT...Thật ra trong 3 cỏi đều là HƯ VỌNG, không thật. Cho nên tất cả hành giả dấn thân vào con đường KIM CANG THỪA phải thay đổi lối nhìn, nghe, ngữi, nếm v.v....ĐỀU LÀ PHÁP HỮU VI, xa hơn nữa thực hành thiền đình trong cảnh giới VÔ VI cho dù có THẤY hay NGHE hoặc bất kỳ hiện tượng nào cũng phải BUÔNG XÃ 100%, vì tất cả đều nằm trong SANH DIỆT, DIỆT rồi SANH hay nói RÕ hơn là hiện tượng KẸT TRONG Có, Không, Cũng có, Cũng không...Nếu hành giả thực hành BÁM VÍU 1 trong 4 hiện tượng SANH DIỆT lâu ngày AN TRỤ TRONG CẢNH GIỚI MA ĐẠO, điều này rất quan trọng khi thực hành..
    Hành giả thực hành theo con đường MẬT, phải tìm cho ra một vị THẦY, vị Thầy có khả năng thông suốt TÁNH KHÔNG của VẠN PHÁP hay nói cách ngắn gọn là VIÊN THÔNG TỨ ĐẠI sẽ giúp TÂM TRUYỀN TÂM thì hành giả thực hành mới có KẾT QUẢ, bằng không TAI HẠI VÔ CÙNG....Thà rằng di chậm hoặc sống cuộc sống HIỀN LÀNH thuận theo 3 cỏi ( THIỆN) thì tốt hơn...Nếu thực hành SAI sẽ KHỔ trong kiếp sống hiện tại và vị lai sẻ KHÔNG CÓ 1 giây HẠNH PHÚC...Cẩn thận điều này.

    Nếu Hành Giả có duyên lành thực hành theo con đường MẬT, một đời có thể tìm lại NIỀM AN LẠC CHON NHƯ THƯỜNG TRÚ...Chậm là 16 đời vị lai sẽ TRỞ về NHÀ...

    Thật ra Chơn Như Thường Trú hành giả không ở đâu xa vời. Không nằm trong, không ở giữa, không bên ngoài, không trên, không dưới v.v...Hành giả y như Pháp thực hành mỗi ngày con đường sẽ đưa đến sự ngạc nhiên khám phá kỳ diệu Bản Lai Diện Mục đã có sẳn mà nhiều kiếp sống đã không hay biết ....

    Con đường dấn thân về nhà, có rất nhiều rất rối hay nói cách khác Đệ Nhứt Phiền Nảo phát sanh 24/24, phải lưu ý điểm này. Có nhiều phương pháp đối trị như, TRÌ CHÚ, LÀM VIỆC THIỆN ( Lục Độ Ba La Mật v.v..) hoặc luôn luôn GIỮ ĐẠI NGUYỆN...từ từ sẽ thông qua chướng ngại. Điều quan trọng là phải Ý THỨC BUÔNG XÃ HỮU VI và VÔ VI, lý do đơn giản hành giả chưa thấy lại CHƠN NHƯ THƯỜNG TRÚ cho nên dù có những hiện tượng AN LẠC, HẠNH PHÚC hay PHIỀN NẢO phải hiểu tất cả PHÁP Hữu và Vô đều MỘNG HUYỄN. Thực tập lâu ngày sẽ có GIỚI, ĐỊNH, HUỆ. Việc này phải tùy thuộc vào công việc chuyển hóa THÂN TÂM thực hành LỤC ĐỘ BA LA MẬT, rất quan trọng trên con đường THIỀN ĐỊNH.

    A- Làm sao chuyễn hóa Thân Tâm?.

    1-Luôn luôn phát Đại Nguyện thực hành pháp CHƠN, cho dù kiếp sống trải qua nhiều thăng trầm gần gũi với chúng sanh (12 loài), Nguyện không bỏ một chúng sanh nào...Tùy phương tiện ra vào làm AN LẠC.

    2-Tâm thường TƯỞNG ÂN ĐỨC đến vị THẦY..., Thầy là nguồn suối AN LẠC HẠNH PHÚC khai mở dòng TÂM THỨC PHIỀN NẢO và CHƠN NHƯ PHÁP GIỚI cho hành giả, ƠN ĐỨC này không gì so sánh đươc, cho nên hành giả PHẢI NHẤT TÂM THÀNH KÍNH vị thầy...( Vị Thầy sẽ thành tựu ĐẠO VÔ THƯỢNG BỒ ĐỀ trước khi hành giả viên mạn Trí Huệ ).

    3-Giữ TÂM ĐỊA GIỚI. Muốn thực hành đươc điều này đúng phương pháp hành giả phải xa lìa 4 Cú ( Có, Không, Cũng có, Cũng không...hay nói cách ngắn gọn LẤY TÂM VÔ TRỤ LÀM GỐC). Thường phải học Kinh Đại Bát Nhã và đưa vào đời sống hàng ngày thực hành qua nhiều hình thức.

    4-TRÌ CHÚ bất cứ CHÚ hay TỤNG KINH mỗi ngày 7 thời tùy theo vị THẦY TRUYỀN THỌ TÂM TRUYỀN TÂM. ( Nếu ngồi THIỀN phải dùng ẤN PHÁP ). Ghi chú: Tâm Truyền Tâm ở điểm này nói lên vị THẦY phải VIÊN THÔNG TỨ ĐẠI mới có khả năng trao truyền CHƠN PHÁP (Mật). Cảnh giới này vượt lên TRI THỨC thế gian...

    5-Khi vào cảnh giới VÔ VI,TÂM PHẢI BUÔNG XẢ, không bám trụ bất cứ hiện tượng nào khởi sanh, ngay cả một Ý NIỆM THIỆN và ÁC.

    6-Vô sanh đệ nhị chân như
    Dù mưa hay nắng thoáng trần hành ba
    Mật đường không khởi không ghi
    Phổ Đà đại nguyện khắc ghi ÁO VÀNG

    7-Trước khi thực hành những điều trên, hành giả phải thông suốt hai điều căn bản.
    (1) Người xuất gia phải thực hành Pháp. " Tứ Đại Giai Không "
    (2) Lục căn phải thanh tịnh......................................................................................

    Nếu hành giả không VIÊN THÔNG được YẾU TỐ CĂN BẢN này, cho dù THỰC HÀNH BẤT CỨ PHƯƠNG PHÁP HIỂN hay MẬT sẽ LẠC vào ÁC MA...KHỔ - KHỔ --KHỔ làm vô lượng chúng sanh BỊ ĐỌA....KHỔ KHỔ KHỔ VÔ CÙNG....RẤT CẨN THẬN...CẨN THẬN !

    ĐIỂM CHÚ Ý: thường ở cảnh giới này hành giả sẽ có THIÊN NHẢN thông, thấy được 7 hoa sen, kết thành THÂN PHẬT hay BỒ TÁT...4 hoa sen màu VÀNG, 3 hoa sen màu xanh dương...Tùy tâm tương ứng sẽ lãnh hội....( Còn Tiếp).

    Hẹn người kiếp trược thế nhân
    Gió thu sắp đến không giờ Nam Mô
    Say sưa một thoáng ra vào
    Danh lam chơn ngã, A Di niệm Đà

    ----------------------------------0o0--------------------------

     

    Read more »
RSS