Niệm Phật Đường
Welcome
Login / Register

Search Results: mat-tong


  • MẬT TÔNG TỐI THƯỢNG DU GÌA

    MẬT TÔNG TỐI THƯỢNG DU GÌA

    Trí Hòa sưu tập

    Lời đầu

    Trước khi nghe pháp hay học giáo lý, nên dùng tâm thanh tịnh khởi lòng bồ đề,

    rộng mở tâm từ bi làm động cơ học đạo để tịnh hóa tâm thức.

    ***

    Muốn bước vào Mật Tông Đại thừa, hành giả trước tiên cần phải thực hành điều

    thứ nhất ( bắt buộc ):

    --- Thuần hóa tâm theo con đường chung ( common path hay Lamrim ), gồm có:

    a)

    Qui y Tam Bảo:

    là cánh cửa dẫn vào Phật pháp,

    b)

    Phát tâm Bồ Đề:

    là cánh cửa dẫn vào Đại thừa,

    c) Hiểu rõ về Tánh Không,

    Ba điều này dùng làm nền tảng để bước vào Mật pháp Đại thừa. Nếu không,

    người tu sẽ dấn thân vào con đường sai lạc, như nấu cát mong thành cơm, vắt sừng bò

    mong được sữa.

    Dàn bài

    Bài này chia làm năm điểm:

    1)

    Nét đặc thù giữa Phật giáo so với các Tôn giáo ngoài Phật giáo ( non-

    Buddhism )

    2)

    Nét đặc biệt giữa Phật giáo Nguyên thủy ( Theravada )và Đại thừa Phật

    giáo (Hinayana ).

    3)

    Đặc điểm khác nhau giữa Đại thừa Hiển tông ( Paramitayana )và Đại thừa

    Mật tông ( Vajrayana ).

    4)

    Sự khác biệt giữa Đại thừa Mật tông ( Vajrayana ) và Mật Tông Tối Thượng

    Du Gìa ( Anuttarayogatantra ).

    5)

    Đại thừa Mật tông và Kalachakra.

    Mật Tông Tối Thượng Du Gìa lại chia ra : Bổn Tôn Du Gìa ( Deity yoga ),

    Hevajra, Vapabhairava, Chalarasamvara, và Kalachakra.

    Phần Chánh

    1)

    Đặc Điểm của Phật Giáo

    Phật giáo có gì đặc biệt khác với các Tôn giáo khác?

    Chắc chắn có người nghỉ Phật giáo có nhiều nghi lễ hơn, nhiều cách cúng dường

    hơn ....vv... Những việc này chưa hẳn là Chánh pháp.

    Vì tâm nguyện cầu giải thoát khỏi luân hồi sanh tử mà người con Phật tìm về Qui

    y nơi Tam Bảo. Phật Pháp Tăng là đối tượng của tâm qui y, nơi có đủ khả năng đưa

    người con Phật đến bờ giải thoát, tránh khỏi mọi đau khổ và nhân đau khổ cho tương lai,

    mãi mãi về sau. Tất cả mọi khổ đau đều phát xuất từ nghiệp chướng phiền não tích lũy

    trong dòng tâm thức. Vì nhân tích tụ nên quả khổ đau phải trả trong cuộc sống.

    Qui y Tam Bảo là quay về nương gởi nơi Phật Pháp Tăng, nhờ đó có thể thoát

    được nghiệp chướng, đạt kết quả rốt ráo là giải thoát mọi khổ đau và nguyên nhân đau

    khổ, là động cơ tu hành chánh của người con Phật hàng sơ cơ.

    Ví như có người vì phạm nhiều ác nghiệp lâu đời nhiều kiếp, mà nay lại tha hồ để

    tâm tham giận si mê chạy theo ý muốn thì chắc chắn sẽ chịu quả khổ. Thì nay mỗi khi

    tâm không tốt nổi lên, nếu có phương pháp để áp dụng hóa giải, ác báo sẽ từ từ giảm

    bớt, tâm dần dần tịnh hóa, có khuynh hướng tạo nghiệp lành, nghiệp lành càng tụ,

    nghiệp dữ càng tiêu. Đến một lúc nào đó sẽ tận diệt khổ đau, thoát khỏi luân hồi.

    Muốn thoát khỏi khổ, giải thoát luân hồi, không cần phải bỏ nơi này dến một nơi

    đặc biệt nào khác, mà khổ đau có thể diệt tận ngay trong thân tâm này, giải thoát có thể

    đạt ngay trong đời này. Thân tứ đại này vốn có sẳn tiềm năng thành tựu nguồn hạnh

    phúc tối thượng. Chỉ cần ta chọn đúng con đường, đúng phương pháp, hợp căn cơ, rồi ra

    công nổ lực tu trì. Như vậy là, đạo Phật là con đường đưa chúng sanh tới bờ giải thoát

    giác ngộ.

    Con đường giải thoát này không có trong các Tôn giáo khác. Các Tôn giáo khác

    có thể dạy nhiều phương pháp nhập định sâu, có thần thông, bay lên mây hay độn thổ,

    xuất hồn du ngoạn, nhưng không dạy cách tu giải thoát khổ đau, tránh gây nhân ác. Đây

    là phần cốt tủy của Phật giáo, mức độ cao quí tuyệt diệu của đạo Phật. Nó không nằm ở

    chỗ nghẻo thì cầu Phật độ cho giàu, bệnh thì cầu cho khỏi, ế hàng thì cầu cho mua may

    bán đắt.

    2)

    Đặc Điểm của Đại Thừa

    Sự khác biệt giữa Bồ Tát Thừa và Thanh Văn Thừa.

    Tại sao Đại Thừa lại thâm diệu hơn?

    Thanh Văn thừa là cổ xe nhỏ, đáp ứng một số nhỏ nhu cầu , chưa phải là thành tựu

    cao nhất.Muốn thành tựu rốt ráo con đường Phật dạy, triệt bỏ toàn diện phiền não nhiễm

    ô, đạt chức năng bồ đề, cần phải hành theo con đường Đại thừa, phương pháp dành cho

    Bồ Tát đạo.

    Trong Phật giáo không có phân chia giáo pháp tốt xấu, pháp này hòan hảo hơn

    pháp kia. Giáo pháp nào thích hợp với căn cơ người tu là giáo pháp hòan hảo.

    Khi mới Thành Đạo, vì quan sát căn cơ chúng sanh nên Đức Phật ba lần chuyển

    pháp, từ Tứ Diệu Đế, làm căn bản cho con đường giác ngộ. Lên cao hơn, Phật dạy phát

    lòng từ bi và tâm bồ đề cho các vị Bồ tát, lãnh trách nhiệm mang lợi ích đến cho chúng

    sanh và thành tựu vô thượng bồ đề. Quả vị cao nhất trong Thanh văn thừa là A La Hán,

    chưa xả bỏ mọi phiền não mê lầm, nên bị vô minh che phủ trí toàn giác. Phật thành tựu

    vô thượng bồ đề mau chóng, mục đích tìm chân lý vì muốn cứu chúng sanh thoát khổ,

    trong giai đoạn tu hành tích lũy phước đức, cầu giác ngộ vì lợi ích chúng sanh. Cuối

    cùng Ngài thành Phật cũng vì lợi ích cho chúng sanh. Từ khi mới phát tâm cho đền khi

    thành đạo đều dựa trên căn bản tâm bồ đề, vì lợi ích chúng sanh. Đến khi thành Phật,

    Ngài có khả năng buông xả rốt ráo để đạt trí viên giác.

    Tất cả chúng ta đều có hạt giống thành Phật, có khả năng đạt vô thượng bồ đề.

    Điều thiết yếu là phải phát tâm bồ đề, nguyện thành Phật vì lợi ích chúng sanh, cố gắng

    tu trì tích lũy phước đức trí tuệ, hành tâm buông xả rốt ráo để thành tựu giác ngộ viên

    mãn. Chỉ có con đường Đại thừa mới có phương pháp đưa hành giả đến quả vị vô

    thượng bồ đề.

    Vì vậy nên pháp Đại thừa cao diệu hơn.

    Tuy nhiên, không thể cho rằng hành theo Đại thừa không cần đến Giới, Định,

    Huệ. Căn bản của Đại thừa chính là Tiểu thừa, chỉ khác là, Đại thừa đòi hỏi phải phát

    tâm đại bi và tâm bồ đề.

    3)

    Đặc Điểm của Kim Cang Thừa

    Pháp Đại thừa lại có hai, một là Tu Nhân ( Ba la Mật thừa ) hay là Hiển Tông, hai

    là Tu Quả, ( Kim Cang Thừa ) hay là Mật Tông. Mật Tông được cho là thâm diệu hơn.

    Mật Tông là một hệ thống hành trì Phật giáo được nhiều thế hệ cao tăng đắc đạo

    giữ gìn và truyền trao trọn vẹn không gián đoạn từ nhiều thế kỷ qua. Như Ngài Long

    Thọ ( Nagarjuna ), Nguyệt Xứng ( Chandrakirti ), Thánh Thiên ( Aryadeva ), cùng nhiều

    vị thánh danh tiếng khác từ Ấn Độ.

    Vì sao Mật Tông lại thâm diệu hơn?

    Những phép thần thông hay sự linh ứng của các câu thần chú chỉ là một việc nhỏ.

    Điều quan trọng cần hiểu rõ là phương pháp do chính Đức Phật truyền dạy cùng các

    phương pháp khác, mục đích chính là hành trì hai sắc thái trong Phật giáo là phương tiện

    ( Lục độ ) và trí tuệ.

    Hiển giáo và Mật giáo giống nhau nơi nội dung tu hành – phương tiện và trí tuệ –

    Nột dung giống nhau, nhưng cách hành trì lại khác.

    Hiển Tông khi nói, '' song tu phương tiện và trí tuệ,'' hay song tu công đức và trí

    tuệ, song tu ở đây có nghiã là song song, xen kẽ, dùng trí tuệ để tu phương tiện, hay

    dùng phương tiện để tu trí tuệ, lần lần tích tụ tư lương công đức, chứ không phải trong

    cùng một lúc mà đồng thời tích tụ được cả hai. Mật Tông cũng nói, '' song tu phương

    tiện và trí tuệ'', nhưng song tu ở đây không phải là thực hiện xen kẻ mà là đồng loạt,

    trong cùng một pháp tu tích lũy được cả hai công đức trí tuệ. Khi quán tưởng thân sắc

    tướng của Phật, đồng thời quán về tánh không của thân Phật. Quán tưởng sắc thân nhiệm

    mầu của Phật là phương tiện, nhờ vậy tích tụ được công đức. Quán tánh không của thân

    Phật là trí tuệ, nhờ vậy tích tụ được trí tuệ. Phương pháp này giúp hành giả cùng một lúc

    tích lũy được cả hai tư lương công đức trí tuệ, do đó đủ khả năng mau chóng thành tựu

    thân Phật và trí Phật. Đây là lý do vì sao Mật Tông lại thâm diệu hơn Hiển Tông.

    Làm thế nào trong cùng một công phu lại có thể song hành công đức và trí tuệ?

    Trước tiên, cần hiểu về cốt tũy của pháp quán tưởng Bổn Tông Du Già ( Deity

    yoga ) của bốn bộ Mật pháp. Quán tưởng Bổn Tôn Du Gìa phải phát khởi từ nền tảng

    tánh không. Đầu tiên quán về trí tuệ tánh không, kế quán thân sanh diệt của mình, từ

    tánh không khởi hiện thành tướng Phật, do đó biết thân Phật tuy hiện hữu nhưng không

    có tự tánh, chỉ do trí tuệ tánh không hoạt hiện mà thành ( do trí tưởng tượng từ tánh

    không ). Khởi hiện thân Phật, trưởng dưỡng tâm hãnh diện thoát tục ( divine pride ),

    niệm niệm không rời tánh không của thân Phật đang hiện ra.

    Trí tuệ tánh không hoạt hiện thành tướng Phật là quả của đường tu. Vì vậy mà nói

    Mật tông vận dụng quả để tu hành. Lấy kết quả để huân tập tâm thức, nhờ đó mau chóng

    đạt thành. Mật Tông là phương pháp tu nhanh chóng như vậy, nên đặc biệt hiếm quí.

    Mặc dù, tự mình hiện đủ loại thân Phật trong quán tưởng, nhưng không có nghiã

    là mình là Phật. Chỉ quán tưởng thôi. Chưa phải thành Phật thực sự. Nhưng cũng đừng

    nói mình không thể thành Phật, mọi người đều có khả năng này. Quán tưởng thân Phật

    để mau chóng tích lũy tư lương công đức, hiểu và quán về tánh không để mau chóng

    tích lũy tư lương trí tuệ.

    Giờ nên tìm hiểu vì sao gọi Mật Tông là '' tu quả '', hay Kim Cang thừa. Kim Cang

    là cứng chắc, không gì phá vỡ, biểu hiện cho sự hợp nhất không thể phân chia giữa trí

    tuệ và phương tiện. Khi hành trì theo pháp Bổn Tôn Du Gìa, hành giả luyện trí tuệ và

    phương tiện không xen kẽ mà cùng một lúc. Quán về cảnh Phật ( cõi Tịnh, Mandala ) là

    quán về sắc thân của Phật, về tâm hỉ lạc của Phật, về cảnh giới của Phật. Nhờ mang quả

    về ngay trong giây phút hiện tại, hành giả huân tập mọi tính năng của tâm mình để mau

    chóng đạt đến thành quả ấy. Kim Cang thừa là đường tu, phương tiện – trí tuệ không hai,

    mang kết quả về ứng dụng trên đường tu. Vì thế mà gọi Kim Cang thừa, là cổ xe '' tu

    quả''.

    4)

    Đặc Điểm của Mật Tông Tối Thượng Du Già

    Phương pháp Kim Cang Thừa lại phân thành bốn bộ.

    Đâu là tinh túy của Mật Tông Tối Thượng Du Gìa? ( Anuttarayagatantra )

    Giáo pháp Phật đặc biệt chú trọng đến tính không hai ( bất nhị )của phương tiện

    và trí tuệ. Hai sắc thái này được tu luyện hợp nhất trong Mật Tông. Pháp tu hợp nhất này

    không có trong Hiển Tông. Hiển Tông tuy kết hợp phương tiện và trí tuệ, nhưng rèn

    luyện song song, xen kẽ. Còn trong Mật Tông thì hoàn toàn là một.

    Mật Tông thường nói đến: nền tảng, đạo, và quả.

    Đạo là công phu tu hành. Quả là thành quả sẽ đạt đến. Còn nền tảng chính là thân

    người. Thân người có cả một hệ thống khí, kinh mạch, luân xa, nhiều loại tinh chất luân

    chuyển trong thân, như máu từ mẹ, tinh khí từ cha, và các hợp uẩn bồ đề khác

    ( bodhicitta substances ).

    Mật Tông cho rằng mỗi loại khí trong cơ thể ( lung ) tương ưng với một tầng tâm

    thức. Tâm và khí có nhiều tầng thô lậu và vi tế khác nhau. Mỗi loại khí kết hợp với một

    tầng tâm thức, phát sinh thành hình ảnh và ý tưởng trong tâm. Khi ngủ, chúng ta từ từ

    chìm sâu vào giấc ngủ, tâm thức càng lúc càng trở nên vi tế, phần tâm và khí thô lậu lúc

    tỉnh dần dần thu về hội tụ nơi huyệt tim, làm hiển lộ các tầng tâm và khí càng lúc càng

    vi tế. Dần dần chúng ta mất tri giác, bắt đầu nằm mơ. Khi thức giấc, các luồng khí tán ra

    khỏi vùng tim, tâm thức càng trở nên thô, cho đến khi thức hẳn.

    Hiển Tông và ba bộ mật pháp dưới của Mật Tông vận dụng lớp khí và tâm thô để

    thiền quán tu tập. Chỉ riêng các mật pháp trong Mật Tông Tối thượng Du Già không làm

    như vậy, mà

    chủ động thâu nhiếp các tầng tâm thức vi tế nhất để thiền quán về tánh

    không và về thân Phật, nhờ vậy có thể triệt bỏ mọi phiền não thô-tế, cùng với tất cả mọi

    tập khí phiền não tích lũy, đồng thời thành tựu ba thân Phật.

    Phương pháp này chỉ có trong Mật tông Tối Thượng Du gìa. Do đó, MTTTDG là

    thâm diệu nhất. Vì ở đây có cả một hệ thống trình bày về khí, kinh mạch, luân xa cùng

    những thành phần luân chuyển trong đó. Khi chạm tới điểm tinh tuý nhất của thân kim

    cang

    , hành giả thu nhiếp hết các tầng tâm khí thô lậu để hiển lộ phần tâm khí vi tế nhất,

    lấy đó làm nền tảng thiền quán tánh không và thiền quán thân Phật.

    Trong kinh thường nói đến khi Phật thi triển thần thông để thuyết pháp hay hóa độ

    chúng sanh, từ thân Phật thể hiện ra triệu triệu thân đầy khắp hư không; trên mồi đầu sợi

    tóc có vô lượng quốc đổ, mỗi quốc độ có ngàn triệu đức Phật vv...Thân tâm này của Phật

    là thân tâm cực kỳ vi tế, có thể tự tại ngự trên đầu sợi tóc không bị ngăn ngại.

    Điều này không phải tin mù quán. Làm hiển lộ và vận dụng thân tâm vi tế, đó là

    đặc điểm của Mật Tông Tối Thượng Du Già. Còn về những lãnh vực khác như tâm bồ

    đề và tánh không thì cũng giống như Hiển Tông không gì khác.

    Đừng cho rằng tu theo mật tông là tự do ngoài khuông khổ giới luật. Các Tổ sư

    truyền thừa mật pháp là những tỳ kheo giữ gìn phạm hạnh rất thanh tịnh trong suốt cuộc

    đời hành đạo.

    5)

    Đặc Điểm của Mật Pháp Kalachakra

    Mật Pháp Kalachakra là phương pháp cực kỳ thâm diệu. Vì cầu giác ngộ nhanh

    chóng để lợi ích chúng sanh. Điều cần yếu là đừng quá chìu thân xác, mà nên trú nơi

    tâm mình. Tâm vốn trong sáng, không ô nhiễm. Đặc tính của tâm không nhiễm ô, nhờ

    vậy mới có thể sám hối tịnh hóa tâm thức, đạt trí toàn giác. Trí này chính là tâm Phật.

    Còn thân Phật thì sao

    ? Làm thế nào chúng ta có thể đạt thành thân Phật?

    Theo pháp Mật tông, thân cha mẹ sanh là thân của mình, nhưng không thể lấy

    thân thô lậu này để chuyển thành thân Phật nhiệm mầu.

    Phải vận dụng phần tâm và khí

    vi tế nhất để thiền quán tánh không, rồi sám hối thanh tịnh mọi chướng ngại của thân và

    tâm ( sám hối nghiệp duyên ), thô và vi tế để chuyển thành sắc thân trong sáng của Phật

    Kim Cang Tát Đỏa ( Vajrasattva ) hay Phật Kim Cang Trì ( Vajradhara ), nói cách khác ,

    để chuyển thành thân Phật. Đây là phần thân và tâm vi tế nhất, khác với thân và tâm năm

    uẩn do cha mẹ sanh ra. Phần tâm và khí vi tế nhất quán tưởng tánh không, là trí Phật, trí

    Phật hoạt hiện thân Phật, thân và trí của Phật trở thành một hiện tượng duy nhất không

    thể phân chia, đó gọi là thân tâm của Phật.

    Kalachakra không những vận dụng thân và tâm vi tế nhất để thiền quán về

    tánh không, mà còn phải trải qua quá trình thu nhiếp toàn bộ mọi thành phần vật

    lý. Bao giờ mọi phần tử vật lý được thu nhiếp tiêu trừ, hành giả sẽ đạt thân vô sắc

    của Phật

    . Mật pháp Kalachakra không nói thân và khí vi tế khác với thân năm uẩn, mà

    dạy phương pháp tiêu trừ thân năm uẩn hiện có, để chuyển thân này thành thân vô sắc

    của Phật.

    Nội dung của Mật Pháp Kalachakra

     

    Read more »
  • Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất

    Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất
    Đức Dalai Lama thứ Hai, Gendun Gyatso
    LUẬN GIẢI 
    Choden Rinpoche
    Gyalten Deying chuyển Việt ngữ
    Thanh Liên, Mai Tuyết Ánh và Chân Thông Tri hiệu đính

    Giới thiệu
    Đề tài hôm nay là chỉ giáo về hành trì chiết xuất tinh chất. Tinh chất có thể được chiết xuất từ hoa, đá, nước và những chất khác, nhưng các giáo huấn sẽ nói về cách chiết xuất  tinh chất của hoa. Thuật ngữ chiết xuất tinh chất nói về việc thọ dụng các viên thuốc bào chế từ hoa, thay vì dùng các chất thô của thức ăn. Sau khi dùng thuốc, ta sẽ tập họp tinh chất của tứ đại đất, nước, gió và lửa, cũng như tinh chất của các tài nguyên phong phú và sựrực rỡ huy hoàng của các cõi thế tục. Khi thọ dụng một chất bằng quan kiến như thế, nó có thể nuôi dưỡng sinh mạng, vì vậy, chúng ta mới nói về“chiết xuất tinh chất”.
    Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất1, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
    Xem tiếp toàn nội dung bản văn PDF:
     
    Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 2 là Gendun Gyatso (1475 - 1542). Ngài sanh trong một gia đình nông dân nhưng phụ thân của ngài là hành giả mật tông nổi tiếng của trường phái Ninh mã (Nyingmapa) hay Mũ Đỏ. Khi Gendun Gyatso mới bập bẹ biết nói, ngài nói với song thân rằng tên của ngài là Pema Dorjee (tức tên đời của vị Lạt ma thứ nhất) và nói ngài thích sống ở tu viện Tashi Lhunpo. Cùng lúc đó, phụ thân của ngài cũng nằm mơ thấy có một vị mặc áo trắng nói tên thật của con trai ông là Gendun Drupa.

    Sau khi học xong cấp một, vào tuổi 11, cậu bé tự nhận mình là Gendun Drupa tức là Đức Đạt Lai Lạt Ma đầu tiên, đang thờ ở tu viện Tashi Lhunpo. Năm 1486, ngài xuất gia thọ giới sadi với đạo sư Panchen Lungrig Gyatso và thọ Ty kheo giới với Lạt ma Choje Choekyi Gyaltsen, người đã đặt pháp hiệu cho ngài là Gendun Gyatso. Ngài bắt đầu học đạo ở tu viện Tashi Lhunpo và Drepung.

    Năm 1517, Đức Đạt Lai Lạt Ma Gendun Gyatso trở thành viện trưởng tu viện Drepung và chủ trì đại lễ hội Monlam Chenmo cho tất cả chư tăng ni tại ba tu viện lớn của phái Gelugpa là Sere, Drepung và Gaden. Năm 1525, ngài trở thành viện trưởng của tu viện Sera và ngài viên tịch vào năm 1542, hưởng thọ 67 tuổi.

    BẤM VÀO ĐÂY, ĐỌC THÊM TÀI LIẼU

    Read more »
RSS