Niệm Phật Đường
Welcome
Login / Register

Search Results: mat-tong


  • Lịch Sử Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng

     

    Lịch Sử Phật Giáo Mật Tông Tây Tạng
     Lê Sỹ Minh Tùng

    Sự phát triển của Phật giáo Tây Tạng có những nét đặc thù mà có lẽ không nước nào khác trên thế giới có được. 
              Vào năm 641 vua Đường Thái Tông của Trung Hoa gã công chúa Văn Thành cho vua Tây Tạng. Vị công chúa này là người thông minh, có học và là một Phật tử thuần thành. Vua Tây Tạng còn có một người vợ khác là công chúa Ba-lợi-khố-cơ của nước Ni-bạc-nhĩ cũng là người có học thức nên cả hai khuyên nhà vua cử người sang Ấn Độ và Trung Hoa để thỉnh các vị Tăng sĩ Phật giáo đến Tây Tạng truyền pháp và đồng thời cũng cử một phái đoàn gồm 18 người do đại thần Thon-mi-sandhota dẫn đầu sang Ấn Độ du học. Khi học xong, những người này về nước bèn chế ra chữ viết riêng cho Tây Tạng dựa theo chữ viết tiếng Phạn để có thể phiên dịch kinh điển Phật giáo sang Tạng ngữ. Sự hình thành một loại chữ viết và việc phiên dịch kinh điển Phật giáo sang Tạng ngữ là một công trình hết sức phức tạp, nhưng chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn làm mọi người hết sức kinh ngạc. 
              Nửa thế kỷ sau đó, năm 710 vua Đường Duệ Tông lại gả công chúa Kim Thành cho vua Tây Tạng đời thứ 35 là Khí-lệ-xúc-tán. Vị công chúa này lại mang đến Tây Tạng rất nhiều kinh thư và sách vở của Trung Hoa.

             

    Mật Tông Tây Tạng 2
    Các ni sư hành lễ theo pháp tu Mật Tông Tây Tạng
    dòng truyền thừa Drukpa ở tịnh thất Tây Thiên, Tam Đảo, Vĩnh Phú.

    Năm 787, ngôi chùa đầu tiên của Tây Tạng có tên là chùa Samye (Tang duyên) được xây dựng và hoàn thành về phía đông nam thủ đô L’hasa và đây là nơi mà vị cao tăng Ấn Độ Santaraksita (Tịch Hộ) đến hoằng hóa trong suốt 13 năm thể theo lời mời của vua Trisong Detsen. Sau đó có nhiều ngôi chùa khác được xây dựng khắp nơi và nhiều vị cao tăng Ấn Độ được mời sang Tây Tạng để hoằng pháp. Thời gian này được xem là thời kỳ phát triển mạnh nhất của Phật giáo Tây Tạng. Với sự hỗ trợ của vua Khri-ral-pa-can, Phật giáo đã đẩy lui những ảnh hưởng của tôn giáo thần chú, bùa ngãi địa phương Bon Pa. 
              Mặc dù Phật giáo phát triển mạnh, nhưng người dân Tây Tạng vẫn ưa chuộng huyền thuật hay phép màu do ảnh hưởng lâu đời củađạo Bon Pa để lại. Ảnh hưởng này ngấm ngầm chi phối dân Tây Tạng trong việc tiếp nhận các luồng tư tưởng Phật giáo khác nhau. Theo chiều dài của lịch sử, Phật giáo Tây Tạng chịu ảnh hưởng của bốn luồng tư tưởng; đó là:
              1) Luồng tư tưởng này đến từ phương Nam và là sự tổng hợp các tư tưởng đại thừa do một số học giả bậc nhất của đại học Ma-kiệt-đà truyền đến. Họ đã sắp xếp nội dung bộ Bát Nhã Ba-la-mật thành 25,000 bài kệ có đánh số rõ ràng và đây được xem như là bước đầu tiên trong việc thiền quán về bộ kinh này. Vì đã được chú giải trước ở Ấn Độ nên khi truyền đến Tây Tạng thì bộ Hiện Quán Trang Nghiêm Luận đã trở thành nền tảng căn bản để đào luyện những tư tưởng cao hơn mà không lệ thuộc hệ thống Mật tông.
              2) Luồng tư tưởng thứ hai đến từ phía Đông là của phái Nhất thiết hữu bộ. Tuy được sự thỉnh mời của vua Tây Tạng, nhưng bộ phái này không bao lâu đã trở thành mờ nhạt vì người dân Tây Tạng không mấy tích cực về những giáo lý mà chỉ thích phép mầu, thần thông.
              3) Luồng tư tưởng thứ ba cũng đến từ phía Đông do các thiền sư Trung Hoa truyền sang. Các vị này đã có rất nhiều nỗ lựcđể chuyển lối sống của người dân Tây Tạng sang theo lối đại thừa, nhưng sau đó vì ảnh hưởng của mật tông nên họ đã bị thất bại hoàn toàn và bắt buộc phải rời khỏi Tây Tạng. Khoảng năm 775 có cuộc đấu tranh dữ dội giữa những đồ đệ của các bậc thầy Trung Hoa (đại thừa) và những đồ đệ của bậc thầy mật tông. Các tu sĩ Trung Hoa bị dồn ép ác liệt và kết quả họ bị đuổi ra khỏi xứ này. Đây có lẽ đánh dấu cho sự cáo chung của Phật giáo đại thừa bắt đầu truyền vào Tây Tạng vào thời công chúa Văn Thành.
              4) Luồng tư tưởng thứ tư là do Đại sư Liên Hoa Sanh (Padma Sambhava) được vua Tây Tạng Ngật Lật Song Đề Tán (755-797) thỉnh từ xứ Udyàna, miền bắc Ấn Độ. Khi nhận lời mời đến Tây Tạng, Đại sư còn đem theo 25 vị đệ tử rất nổi tiếng có tài thần thông biến hóa, hàng phục ma chướng tà đạo. Ấn tượng mà Ngài Liên Hoa Sanh tạo ra với Tây Tạng phần lớn là nhờ vào việc thực hiện những phép mầu, có tài chinh phục ma quỷ và khả năng thần thông biến hóa rất gần gũi với đạo Bon Pa nên được dân Tây Tạng tiếp nhận rất cuồng nhiệt. Những huyền thoại để lại về Ngài có thể là đã vượt qua những sự kiện lịch sử vì dân Tây Tạng xem Ngài là Đức Phật Thích Ca tái thế.

              

    Mật Tông Tây Tạng 3
    Đại sĩ Liên Hoa Sanh – Sơ tổ Mật tông Tây tạng

    Sự dung hợp và tiếp thu các luồng tưtưởng theo khuynh hướng đặc thù của người dân Tây Tạng đã biến Phật giáo Tây Tạng đậm màu sắc của những huyền thuật và phép mầu. Ngài Liên Hoa Sanh là người sáng lập ra tông phái Ninh Mã (Nyingma) được gọi là Cổ phái và vẫn còn hoạt động cho đến ngày nay. Ngài cũng là tác giả của cuốn sách “Tử Thư”, xây dựng tu viện Tang Duyên (Samye) và được coi là Tổ sư của Phật giáo Tây Tạng. Vì thế Phật giáo Tây Tạng không còn ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa nữa mà được xem như là Phật giáo Mật tông đậm màu sắc thần linh, lễ nghi, bùa chú, ấn quyết, xuất quỷ nhập thần rất phức tạp.

     

    Mật Tông Tây Tạng 4
    Tây Tạng - vương quốc huyền bí của Phật giáo

    Tây Tạng - vương quốc huyền bí của Phật giáo

              Tuy nhiên, năm 836 khi vua Tây Tạng đời thứ 39 là Lang-dar-ma lên ngôi thì ông cố gắng tích cực để tiêu diệt Phật giáo vì ông là một tín đồ thuần thành của đạo Bon Pa. Sau khi đàn áp Phật giáo được sáu năm thì ông bị một Lạt Ma dùng cung bắn chết vào năm 842. Tuy đã giết chết nhà vua, nhưng tình hình Tây Tạng càng ngày càng đi vào chỗ tối tăm vì các nhóm thế lực tranh dành quyền lực khiến cho nước Tây Tạng bị chia năm xẻ bảy làm cho đời sống dân Tây Tạng cực kỳ khổ sở. Triều đình thẳng tay đàn áp Phật giáo và buộc các tăng sĩ phải đi làm thợ săn, đồ tể… và họ đốt phá kinh điển cũng như chùa chiền. Để chống lại đạo Bon Pa, Phật giáo Tây Tạng tìm cách tái lập quan hệ với Ần Độ để thỉnh mời các tăng sĩ sang truyền pháp.
             

    Mật Tông Tây Tạng 5
    Người dân Tây Tạng rất thân thiện và nhiệt tình.

    Trong khi ở Tây Tạng vua Lang-dar-ma cố tình tiêu diệt Phật giáo thì vào thời điểm đó tức là vào năm 845 ở Trung Hoa cũng xảy ra tình trạng đàn áp và hủy diệt Phật giáo do vua Đường Vũ Tông đề xướng. Nhà vua đã ra lệnh hủy hoại trên 1,600 ngôi chùa lớn và bức bách trên 260,000 tăng ni phải hoàn tục. Vua còn ra lệnh đốt hết tất cả kinh điển Phật giáo, đập phá tượng Phật, tịch thu ruộng đất nhà chùa và thu góp các chuông đồng để đúc thành tiền. Cũng giống như ở Tây Tạng, sau pháp nạn thì nhà Đường ngày càng lâm vào cảnh suy vi, u ám và lọan lạc cho đến năm 907 nhà Đường bị Chu Toàn Trung diệt mất mà lập ra nhà Hậu Lương.

              Một trong số những người đã có công chấn hưng Phật giáo Tây Tạng là Rin-chen Bzangpo (985-1055). Ông đã sang Ấn Độ và được thọ giáo với 70 vị danh tăng cho nên khi về nước ông còn mời rất nhiều vị đến Tây Tạng giúp ông trong việc phục hưng Phật giáo Tây Tạng. Các vị danh tăng Ấn Độ khi vào Tây Tạng có mang theo rất nhiều kinh điển mật tông như :  Nhất Thiết Như Lai Kim Cang Tam Nghiệp Tối Thượng Bí Mật Đại Giáo Vương… được dịch sang Tạng Ngữ. Những yếu tố thiên về Mật tông trong thời điểm này khiến cho hầu hết các tông phái Phật giáo ở Tây Tạng đều mang đậm sắc thái của Mật tông.

              Những sự đàn áp của triều đình không bóp chết được niềm tin mãnh liệt đã được nẫy nở trong lòng người dân Tây Tạng vì thế cho dù Phật giáo Tây Tạng chịu đựng sự đàn áp sắp đến chỗ diệt vong đến cuối thế kỷ thứ 10 và mãi đến thế kỷ thứ 11 thì mới được khôi phục. Năm 1041 có Đại sư Atisha (982-1054) lúc bấy giờ đang trụ trì tại tu viện Vrikamalisa ở miền bắc Ấn Độ nhận lời mời của vua Yeshe-O để đến Tây Tạng. Ông lấy triết học Tánh không và Duy thức làm tư tưởng cho Phật giáo Tây Tạng và đã sắp xếp toàn bộ hệ thống kinh sách làm ảnh hưởng rất lớn đến các hệ tư tưởng Mật tông Tây Tạng. Ông nghĩ rằng một trong những khó khăn của Phật giáo là có quá nhiều pháp môn để tu giải thoát nên ông giới thiệu tác phẩm “Minh Đăng Thánh Đạo” để giúp chúng sinh thực hành dựa theo ba trình độ phát triển tâm linh. Mức độ thấp nhất là những người muốn tìm cầu hạnh phúc trong thế gian này và chỉ nghĩ đến lợi ích của riêng mình. Mức độ thứ hai là những người cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình, nhưng khôn ngoan hơn là chọn một cuộc sống đạo đức và tìm cầu trong sạch. Mức độ cao nhất là những người trong tâm đã hoàn toàn thanh tịnh giải thoát. Nhưng tác phẩm này chỉ được phát huy tối đa vào khoảng 300 năm sau với sự xuất hiện của ngài Tông-khách-ba (Tsong Khapa). 
              Đại sư Tông-khách-ba (1357-1419) sinh tại Amdo thuộc vùng đông bắc Tây Tạng, xuất gia lúc còn nhỏ và tham học với nhiều vị đại sư khác nhau. Ông sáng lập ra tông phái Hoàng mạo phái (phái mũ vàng) (Gelugpa), một tông phái quan trọng nhất của Tây Tạng hiện nay. Ông chủ trương xét lại toàn bộ kinh điển và tổng kết thành hai tác phẩm chính:  Bồ-đề đạo thứ đệ (Lamrin Chenmo) tiêu biểu cho đường lối tu tập Hiển giáo và Chân ngôn đạo thứ đệ (Ngagrim Chenmo) tiêu biểu cho đường lối Mật Giáo. Trước khi mất, Ông di chúc lại cho hai đệ tử là Dalai Blama và Panchen Blama tức là Đạt-Lai Lạt-Ma (từ bi) và Ban thiền Lạt-Ma (trítuệ). Từ bi và trí tuệ là hai biểu tượng của Đức Phật. 
               Sự hình thành của các tông phái Phật giáo Tây Tạng diễn ra khoảng 400 năm do chính người Tây Tạng thành lập cho thích hợp với tinh thần và xã hội của họ mà yếu tố huyền thuật, phép mầu hay thần thông hầu hết đều mang nặng màu sắc của Mật tông đã từng gắn bó lâu dài với người dân bản xứ. Để chống lại sự đàn áp của nhóm Bon Pa, Phật giáo Tây tạng đã được tổ chức thành những môn phái, giáo hội, nhưng chính sự tổ chức nầy đã đưa Phật giáo vào con đường suy vong.

    Mật Tông Tây Tạng 6
    Thai tạng giới Mạn đà la

     

              Vì có nhiều giáo hội, tông phái dần dần các tu sĩ đã trở nên lười biếng, không giữ gìn giới luật và coi việc tu hành như một nghề nghiệp hướng dẫn tinh thần cho quần chúng hơn là tu thân cầu giải thoát. Tệ hại hơn nữa, các nghi thức hành lễ để suy gẫm lời Phật dạy đã biến thành cúng vái, xin xỏ, lên đồng, nhập cốt, giải đáp là số tử vi, bùa chú thư phù… Các tinh hoa Phật pháp được cất giữ không mang ra giảng dạy mà chỉ đề cao hình thức bề ngoài. Các tu sĩ không chịu tu học mà chỉ đặt trọng tâm vào việc sắc tướng như kêu gọi Phật tử xây chùa, đúc tượng để được phước. Truyền bá những chuyện mê tín hoang đường để lôi kéo tín đồ thay vì giúp họ tu hành để được giải thoát giác ngộ. Họ còn cho phép các tu sĩ được lấy vợ và được thừa kế tức là nếu cha là Lạt Ma thì con đương nhiên cũng thành Lạt Ma khỏi cần tu học. Mãi cho đến vị Đạt-Lai Lạt-Ma thứ 5 Lobsang Gyatso (La bốc tạng Gia mục thố) thì việc chấn hưng mới được hoàn mãn. Tục lệ thừa kế bị loại bỏ và nhiều kỳ thi về Phật học được tổ chức để gạt bỏ những người mượn áo tu hành làm điều bất chính. Những kinh điển từ trước vẫn được cất kỹ thì nay được mang ra truyền bá sâu rộng để khuyến khích phong trào tu học trong nước. Mọi gia đình được khuyến khích gởi con cái vào các tu viện để trở thành các vị Lạt Ma. Sau đó họ có thể lập gia đình và sống như một người thường. Chỉ khi nào họ phát nguyện xuất gia thì mới được gọi là tu sĩ (Trappa). 

     

    Mật Tông Tây Tạng 7
    Kim cương giới Mạn đà la.

    Ở Tây Tạng có rất nhiều tông phái, nhưng đại để có những tông phái mà những vị tổ sư đã làm sáng danh Phật giáo Tây Tạng cho đến ngày nay là: :
              1) Phái Kadampa là do đệ tử của Đại sư Atisha là Ngài Gyalwa Dromtonpa thành lập vào khoảng năm 1050. Tông phái này tiêu biểu cho truyền thống trung tâm của Phật giáo Tây Tạng.
              2) Phái Kagyu do Ngài Marpa Lotsawa sáng lập. Tông phái này dần dần mang đậm bản sắc Tây Tạng nhất so với các tông phái khác và không nắm giữ hoặc chi phối các quyền lực xã hội như các phái Gelugpa… Hiện nay, phái này vẫn còn là một môn phái bảo thủmạnh nhất và họ xem việc lập gia đình không cản trở đến sự tu hành. Trong phái này có sự xuất hiện của Milarepa (1040-1123) là bậc thánh giả và cũng là nhà thơ vĩ đại của Tây Tạng. Ông nổi tiếng với tác phẩm Thập vạn ca (100,000 bài ca). Trước khi theo Phật giáo, ông tu theo ma thuật để tìm giết hại những kẻ thù của gia đình bằng cách làm cho nhà sập đè lên họ và làm mưa đá rơi trên ruộng của họ. Sau đó nhận biết tội lỗi của mình nên đến tìm gặp Đại sư Marpa để Ngài giúp ông trả hết những ác nghiệp đã tạo bằng cách gánh chịu những cực hình trong suốt 6 năm. Vào năm 44 tuổi thì ông ngộ đạo rồi sống 39 năm còn lại như một nhà ẩn tu trên Hy-mã-lạp sơn gần biên giới Nepal cho đến khi ông viên tịch vì uống sửa có pha thuốc độc của một người ganh ghét ông.
              Truyền thống tái sinh của các vị Karmapa thuộc phái Kagyu được khởi đầu từ thế kỷ thứ 12 nghĩa là sớm hơn so với các vị Đạt-La Lạt-Ma gần ba thế kỷ. Có thể nói họ là những người đầu tiên khởi xướng truyền thống tái sinh tại Tây Tạng. 
              3) Phái Shi-byed-pa trước tiên do Phan-dam-pa đề ra là tông phái duy nhất chú trọng đến Bát Nhã nên tông phái này chỉ dành cho thiểu số những người có trình độ cao. Họ dành trọn tâm trí cho việc thực hành thiền ở những nơi cách biệt và không quan tâm đến xã hội nhiều. Họ lấy bộ Trung Quán Luận làm nền tảng tu hành. Đây là sự điều chỉnh những điểm cốt yếu và mặt tâm linh của Phật giáo cho phù hợp với giáo lý mật tông.
              4) Phái Saskya có những nét gần gũi hơn với đời sống thế tục. Sau khi chế độ quân chủ sụp đổ, Tây Tạng không có chính quyền trung ương nên các tăng sĩ của phái này đã nắm lấy chính quyền và truyền ngôi vị lại cho con cháu. Hiện nay họ vẫn còn tồn tại nhưng đã từ lâu không còn nắm quyền cai trị đất nước.
              5) Phái Gelugpa là tông phái nổi tiếng nhất ở Tây Tạng được sáng lập bởi Ngài Tông-khách-ba (Tsong Khapa) (1357-1419) là nhà tư tưởng vĩ đại của Phật giáo Tây Tạng. Ngài là một nhà cải cách và đã tiếp nối công việc hoằng pháp của Đại sư Atisha tức là nghiêm về đạo đức, giới luật và giảm nhẹ ảnh hưởng của pháp thuật bằng cách nhấn mạnh vào khía cạnh tâm linh. Đây chính là phái mũ vàng đã nắm quyền cai trị Tây Tạng cho đến năm 1950 khi Trung Cộng xua quân đánh chiếm đất Tây Tạng. Sự thành công nhanh chóng của Ngài Tông-khách-ba (Tsong Khapa) là vì nhờ ông có rất đông đệ tử, nhờ vào việc thành lập các tự viện và nhờ vào 16 bộ sưu tập các tác phẩm Phật học. Trong số đó có hai tập rất nổi tiếng. Một là trình bày đầy đủ về sáu phép ba-la-mật của đại thừa và tập kia nói rõ những phương thức công phu theo Mật tông. Tập sách đầu có tên là “Từng bước đi lên giác ngộ” là dựa theo từ tập sách Minh Đăng Thánh Đạo của Ngài Atisha. Ngài là vị học giả luôn cố gắng tìm vị trí trung dung giữa những cực đoan, tránh sự thiên lệch và đưa lại sự hòa giải giữa hai phái mũ vàng và mũ đỏ.

     

    Mật Tông Tây Tạng 8
    Tượng Ngài Tông Khách Ba trong
    ngôi chùa
    nơi sinh trưởng của Ngài
    trong tu viện Kumbum,
    gần Xining, Qinghai (Amdo), China.

    Tượng Ngài Tông Khách Ba trong ngôi chùa nơi sinh trưởng của Ngài trong tu viện Kumbum, gần XiningQinghai (Amdo), China.
              Vào thế kỷ 15, phái Gelugpa đưa ra một “luận thuyết” cho rằng các vị Bồ-tát như Đức Quán Thế Âm, Di Lặc và chư Phật như Đức Phật A Di Đà chắc chắn đã có hóa hiện ra những hóa thân để làm các vị giáo chủ mà hóa độ chúng sinh. Những hóa thân tái sinh này được các vị cao tăng tìm kiếm và xác nhận rất cẩn thận dựa trên những quy luật rất phức tạp do hội đồng lễ nghi đề ra. Vai trò lãnh đạo của những vị hóa thân tái sinh này là nét đặc thù của Tây Tạng trong suốt gần 5 thế kỷ qua. Tất cả 14 vị Đạt-Lai Lạt-Ma đều xuất thân từ phái mũ vàng nhưng phái mũ đỏ vẫn được tôn trọng và vẫn chiếm số đông.



              Trong cuốn “Tây Tạng Huyền Bí” có diễn tả về cung điện Potala ở Tây Tạng trước khi quân Trung Cộng đánh chiếm đất nước này như sau:
             

    Mật Tông Tây Tạng 9
    Điện Istana Potala, Lhasa, Tây Tạng. Cung điện Potala – Wikipedia

    Tu thất của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma tọa lạc trên nóc điện Potala, vì theo phong tục bản xứ, không ai có quyền được ở chỗ cao hơn Ngài. Một cầu thang vĩ đại xây bằng đá rộng gần bằng một đường lộ đưa đến tư dinh của Ngài. Điện Potala là một tòa cung điện độc lập xây dựng trên một ngọn đồi. Đó là cơ quan đầu não để giải quyết tất cả mọi công việc chính trị và tôn giáo của xứ Tây Tạng. Đó là trung tâm của quốc gia, mục tiêu của tất cả tư tưởng, nguồn gốc của tất cả mọi hy vọng. Bên trong vòng thành của cung điện, trong những tòa nhà của Ngân Khố Quốc Gia, có dự trữ những khối vàng ròng, vô số những bao đựng đầy ngọc ngà châu báu và những bảo vật quý giá của thời đại cổ xưa nhất… Tiếp tục bước lên đến một điểm cao tột trên nóc điện, tại đây có những lăng tẩm của những vị Đạt-La Lạt-Ma của quá khứ, tức tiền thân của đức Đạt-La Lạt-Ma hiện tại.”
              Hãy nhìn lại lịch sử Phật giáo vào thời Đức Phật còn tại thế. Sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài trở về cung thành Ca tỳ la vệ thăm lại phụ vương và gia đình. Vua cha khẩn thiết yêu cầu Ngài ở lại cung thành vừa làm vua và vừa là vị Phật, nhưng Ngài chỉ chọn một con đường duy nhất là khất sĩ. Khất sĩ ở đây là phải chấp nhận từ bỏ tất cả, từ bỏ tiền tài danh lợi, vợ đẹp con xinh, uy quyền chức tước. Vì sao?  Bởi vì đối với phàm nhân thì những thứ đó là hạnh phúc, là niềm vui, là cứu cánh tột đỉnh của cuộc sống. Còn đối với bậc đại thánh thì những hạnh phúc này chỉ là giả tạm phù du, như sương, như khói, như đám mây có tan có hợp và là những sợi dây vô hình cột chặt con người vào vòng hệ lụy khổ đau. Có thế lực, uy quyền, danh vọng là có tranh dành, có thủ đoạn hại người lợi mình và dĩ nhiên tội nghiệp cũng vì thế mà tác tạo. Đây là miếng mồi thế tục, là trò chơi của thế gian. 
              Ví như sau một vài năm ở ngôi cao Tổng Thống Hoa Kỳ, thì vị nào tóc cũng bạc. Đủ thấy bình trị thiên hạ là phiền não, thủ đoạn, tranh giành, chém giết chớ đâu phải dạo chơi chốn hoa viên thanh tịnh an nhàn. Đức Phật xuất thân là một vương tử, giàu sang phú quý, nhưng khi xuất gia làm người tu sĩ thì Ngài trở thành người Khất sĩ (buông xả tận cùng). Vì vậy Ngài mới có vô thượng Bồ-đề và vô thượng Niết-bàn.
              Các vị Tổ sư khi thành lập mỗi một tông phái đều thể hiện những đặc tính siêu việt của mình trong những yếu tố góp phần tạo nên đời sống thêm phong phú cho Phật giáo Tây Tạng. Tuy các tông phái có sự khác biệt về việc tổ chức tự viện, về màu sắc y phục, về các vị thần bảo hộ hay phương pháp thiền định, nhưng họ luôn có sự tác động và vay mượn lẫn nhau. Sự nổi bật của các vị Đạt-Lai Lạt-Ma đã làm cho nhiều người lầm tưởng rằng các Ngài là những vị lãnh đạo của toàn thể nhân dân Tây Tạng. Nhưng trên thực tế, Tây Tạng có rất nhiều tông phái khác nhau và mỗi phái có một vị lãnh đạo tinh thần tối cao của riêng mình. Vì thế tuy Đức Đạt-Lai Lạt-Ma được xem là người lãnh đạo cao nhất của Tây Tạng về mọi mặt, nhưng mỗi một truyền thống tông phái đều có một vị đứng đầu để dẫn dắt họ.
              Đối với Phật giáo trên khắp thế giới hiện nay, một phần ba thuộc về Phật giáo Nam tông (Nguyên thủy tức Theravada), hai phần ba thuộc Phật giáo Đại thừa Bắc tông (Mahayana). Trong khi đó, Kim cang thừa Phật giáo (Vajrayana) chỉ đại diện cho 1/30 số người Phật giáo vì Mật tông giới hạn trong các nơi thưa dân như Tây tạng, Bhutan, Nepal và Mông cổ. Mặc dù Đức Lạt-Lai Lạt-Ma chỉ đại diện cho 1% tín đồ Phật giáo thế giới, nhưng với uy tín của Ngài, người Tây phương vẫn nhìn Ngài như người đại diện cho toàn thể Phật giáo.

    Mật Tông Tây Tạng 10
    Ban Thiền Lạt Ma 10
    Mật Tông Tây Tạng 11
    Đức Ban Thiền Lạt Ma, Mao Trạch Đông và Đức Đạt Lai Lạt Ma

              Khi Trung Cộng xua quân đánh chiếm nước Tây Tạng năm 1950 thì cả hai Ngài Ban Thiền và Đạt-Lai còn kẹt lại Tây Tạng. Tháng 4 năm 1959, sau chín năm bị giam lỏng ở Potala, Đức Đạt-Lai trốn thoát và tỵ nạn tại Dharamsala tức Little L’hassa gần biên giới Tây Tạng và Ấn Độ cho đến ngày nay. Trong khi Đức Đạt-Lai trốn được qua Ấn Độ, Ngài Ban Thiền thứ 10, Lhundrup Choekyl Gyaltsen, còn bị kẹt lại và đã viết bài kiến nghị dài bảy mươi nghìn chữ để tố cáo cho thế giới về cảnh ngộ khốn cùng của đồng bào Tây Tạng dưới sự thống trị của Trung Cộng. Ngài đã bị đảng Cộng Sản Trung Quốc và Mao Trạch Đông lăng mạ và kết án 14 năm trong tù hay cấm cố tại nhà. Tháng 12 năm 1964, Ngài bị đưa đến Bắc Kinh dưới tội danh “phản cách mạng” và bị đánh đập tàn nhẫn. Năm 1978, sau khi được trả tự do, Ngài du hành khắp Tây Tạng và tiếp tục phê bình chính sách cai trị bạo tàn của Trung Cộng. Chẳng bao lâu sau đó, Ngài bị bắt trở lại và ngày 28 tháng giêng năm 1989, Ngài được nói là đã trút hơi thở cuối cùng trong hoàn cảnh rất bí mật, hưởng dương 51 tuổi. Để tiếp tục truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, năm 1995 Đức Đạt-Lai Lạt-Ma đã chứng nhận Gendun Choekyi Nima là Đức Ban Thiền thứ 11, nhưng sau đó Bắc Kinh đã bắt cóc vị này cùng với cha mẹ và họ bị mất tích cho đến ngày nay.  Trung Cộng sau đó tự chọn một cậu bé khác tên là Gyaltsen Norbu để ngồi vào chức vị Ban Thiền Lạt Ma thứ 11, người mà hầu hết nhân dân Tây Tạng tẩy chay.

    dalai_lama

    Đức Đạt Lai Lạt Ma Thứ XIV
    His Holiness The XIV The Dalai Lama
    登珠嘉穆錯 - Tenzin Gyatso

    dalai lama 1

    dalai lama 2dalai lama 3


    Đức Đạt-Lai Lạt Ma thứ 14 hiện nay đã lớn tuổi, nếu một ngày nào đó Ngài viên tịch thì chắc chắn Trung Cộng sẽ chọn một vị Đạt-Lai mới cũng giống như Ngài Ban Thiền thứ 11 thì truyền thống Phật giáo Tây Tạng sẽ mai một.

    SOURCE: TVHS

    Read more »
  • TRÍCH DỊCH VÀI KỆ TÁNH KHÔNG TRONG TRUNG LUẬN SANSKRIT (Mūla-madhyamaka-kārikās)

     

     

    TRÍCH DỊCH VÀI KỆ TÁNH KHÔNG
    TRONG TRUNG LUẬN SANSKRIT (Mūla-madhyamaka-kārikās)
    (Phước Nguyên trích dịch nguyên văn Sanskrit)

    Tôi (Long Thọ) xin kính lễ Ngài - nhân vật vĩ đại nhất trong hết thảy các nhà thuyết pháp.
    (Phật là) Bậc giác ngộ hoàn toàn, đã giảng thuyết (lý Duyên Khởi như vậy):

    (Bất cứ cái gì cũng) Không diệt, không sinh, không đoạn tuyệt, không thường hằng, không đồng nhất, không dị biệt, không đến, không đi, thì cái lý Duyên Khởi (có các đặc trưng) như thế sẽ chặn đứng mọi khái niệm đa dạng, và là cát tường (śiva).  Mmk LVP 11,13-16


    1/Nếu tôi không chấp thủ các pháp, như thế là sự chứng nghiệm Niết bàn, Niết-bàn sẽ là của tôi. Những ai có sự thừa nhận như vậy, là mức nhận thức sai lầm cao nhất của sự chấp thủ.  (MMK 16.9)

    2/ Trạng thái tồn tại độc lập sinh khởi trong các điều kiện và nguyên nhân, đây là điều phi lý.

    Một trạng thái tồn tại độc lập được sinh khởi trong các nguyên nhân và điều kiện, phải là cái được dựng lập theo quy ước.
    (MMK 15.1)

    3/ Làm thế nào mà nó có thể có được “Trạng thái tồn tại độc lập đã được tác thành theo quy ước,

    Bởi vì trạng thái tồn tại độc lập không phải là giả lập cái được tác thành mang tính tượng trưng và không phụ thuộc vào bất cứ cái gì khác. (MMK 15.2)

    4/ Nếu ông dõi theo  tất cả các thứ  như là sự tồn tại thực sự từ trạng thái tồn tại cá biệt của nó. Như thế thì ông sẽ dõi theo tất cả các thứ đó như là không có nguyên nhân và điều kiện (MMK 24.16). 

    5/ Nhân và quả của chính bản thân nó, cùng với người hành động, công cụ, các hành vi, sự sinh khởi - diệt tận và kết quả cũng sẽ bị loại trừ ((MMK 24.17)

    6/Bất cứ thứ gì tồn tại nhờ vào ‘điều kiện hỗ tương’ thì đều tịch diệt xét trên mặt trạng thái tồn tại độc lập (MMK 7.16.ab).

    7/ Nếu có một trạng thái cố định, thì tất cả mọi sự tồn tại sẽ không sinh khởi và không bị chặn đứng; nhất định sẽ mãi mãi thường trú cố định, tách ra khỏi nhiều trạng thái bất đồng (MMK 24.38).

    8/ Nếu những thứ tồn tại là trạng thái nguyên thủy, thì sẽ không xảy ra sự không tồn tại. Bởi vì sẽ không bao giờ xảy ra trường hợp mà trạng thái nguyên thủy trở thành một cái gì khác. (MMK 15.8).

    9/Những điều không có trạng thái tự tồn tại bởi vì chúng được nhìn nhận là đang thay đổi thành một cái gì khác.

    Những điều không hiện hữu trạng thái tự tồn tại, bởi vì điều này là tính không. (MMK 13.3).

    10/Nếu trạng thái tự tồn tại không có mặt thì sẽ có sự thay đổi của cái gì? (MMK 13.4ab) 

    Nếu trạng thái tự tồn tại có mặt thì sẽ có sự thay đổi của cái gì? (MMK 13.4.cd)

    11/ Ở đây, chính bản thân cái này đang tồn tại với trạng thái cá biệt của nó không bị biến đổi [trở thành cái gì khác]; Chính bản thân của cái khác kia cũng không bị biến đổi để trở thành gì cái gì khác.

    Cho nên, bản thân của người trẻ đang không thể có tuổi già và cũng chính bản thân của người già đang không thể không có tuổi trẻ. (MMK 13.5)

    12/Nếu chính điều này tự nó thay đổi thành một cái gì khác, thì sữa chính nó sẽ trở thành phô-mai. Cái gì khác biệt so với sữa mà nó có thể trở thành phô-mai? (MMK 13.6)

    13/Sự xuất hiện và tan hoại không thể xảy ra đối với tánh Không

    Cũng thế, sự xuất hiện và tan hoại không thể xảy ra đối với cái không phải tánh Không (MMK 21.9).

    14/ Ai thấy được duyên khởi, người ấy cũng thấy được cái này, là sự khổ, sự tập khởi của khổ, sự diệt tận tập khởi của khổ và con đường hướng đến sự diệt tận tập khởi của khổ. (MMK 24.40)


    15/ Cái gì là duyên khởi tôi nói cái đó là tính Không,

    Tính Không ấy là khái niệm quy ước. Và chính nó cũng là Trung Đạo. (MMK 24.18)

    16/ Bởi vì có động lực thúc đẩy là Tính Không, cho nên tất cả pháp được tác thành.

    Nếu không động lực thúc đẩy là Tính Không, thì tất cả pháp không được tác thành  (MMK 24.14).

    17/Bởi vì không có pháp nào không từ nhân duyên mà sinh khởi. Do đó, không có pháp nào mà không có tính Không (MMK 24.19).

    18/ Vì ‘sinh khởi’ – ‘tồn tục’ – ‘tiêu diệt’ không thành lập cho nên không tồn tại ‘cái được tác thành do các điều kiện hỗ tương cùng tụ hội’ (hữu vi).

    Và khi “cái được tác thành do các điều kiện hỗ tương cùng tụ hội’ (vô vi) không thành lập được thì làm thế nào ‘cái không được tác thành do các điều kiện cùng tụ hội’  thành lập được đây? (MMK 7.33)

    19/ Không bị phá huỷ, không đạt đến, không có cái gì bị đoạn trừ, không có cái gì được chứng đắc.

    Không diệt, không sinh: ở đây được gọi là Niết-bàn. (MMK 25.3)

    20/ Nếu tồn tại cái không phải là tính Không, thì sẽ tồn tại cái tính Không.

    Nếu không tồn tại cái không phải tính Không, thì làm sao có sự tồn tại của tính Không? (MMK 13.7).

    21. Nếu tồn tại không thể chứng minh được như vậy, thì không-tồn tại không thể chứng minh được.
    Bởi vì người ta nói không tồn tại là dạng tồn tại khác của tồn tại… (MMK15.5)

    22. Nếu quan điểm của họ về tính Không bị sai lầm, thì những người đần độn sẽ bị tổn hại.

    Cũng giống như việc xử lý con rắn một cách sai lầm, hay sự chế tạo bùa mê không đúng phương cách (MMK 24.11).

    23. Bằng thí dụ là thứ giống như huyễn thuật, giống như giấc mộng, giống như thành phố gandharva (Càn-thát-bà), ‘sinh khởi’ – ‘tồn tục’ – ‘tiêu diệt’ được thuyết minh giống như vậy.

    24. “Nó tồn tại” là chấp thường, “nó không tồn tại” là một quan điểm của hoại diệt.

    Do đó, người có sự thể nghiệm, đừng nên đình trú trong sự tồn tại hoặc không tồn tại (MMK 15.10).

    25. “Bởi vì cái gì tồn tại do trạng thái cá biệt của nó không phải không tồn tại”; vì thế đây là quan điểm thường còn. “Điều này, nó xuất hiện từ trước đến nay, không phải là sự tồn tại”, dẫn đến quan điểm đoạn diệt. (MMK 15.11).

    26. Bất cứ cái gì khởi lên hệ thuộc vào cái khác, trước hết, không phải là nó mà cũng không phải khác. Do đó, nó không bị đoạn diệt mà cũng không phải thường còn. (MMK 18.10)


    27. Không phải một, không phải nhiều, không phải đoạn diệt, không phải thường còn: Đây là giáo lý bất tử (śāsanāmṛtam) của Chư Phật, những vị nhiếp hộ thế gian (lokanāthānāṃ) (MMK 18.11).

    28. Do bởi có sự thể nghiệm trực tiếp về tồn tại và không tồn tại, đức Thế Tôn đã phủ định cả tồn tại lẫn không tồn tại qua lời dạy của ngài ở trong kinh kātyāyana. (MMK 15.7)

    29. Tuy nhiên, người có trí tuệ thấp kém nhìn ‘trạng thái tồn tại’  và ‘trạng thái phi tồn tại' của sự vật, người đó không thấy được cái an ổn đó là sự tịch diệt của đối tượng. (MMK 5.8).


    30. Không nhận thức thông qua những cái khác, tịch tĩnh, không bị bố trí bởi các khái niệm giả lập

    Thoát ra khỏi cấu trúc mang tính ngôn ngữ (vikalpa), ở ngoài sự phân biệt, đây là những đặc điểm của chân như. (MMK 18.9).

    31. Người ta nói rằng: “có một cái tự ngã”, đối lập với “vô ngã” v.v..đã được giảng thuyết.

    Đức Phật cũng dạy không có bất cứ cái gì được gọi là tự ngã, cũng không có cái gì được gọi là vô ngã. (MMK 18.6).

    32.“Tánh không” không nên nói đến mà “không tánh không” cũng không.

    Cả hai hoặc không cái nào, nhưng nó được nói vậy vì mục đích của sự quy ước (prajñapti). (MMK 22.11).

    33. Những người không biết sự khác biệt giữa hai sự thật

    Không biết thực tại thậm thâm trong lời dạy của Phật. (MMK 24.9)

    34. Không dựa vào (anāśritya) quy ước phổ thông (vyavahāram), yếu nghĩa toàn diện (paramārtha) không thể được công bố (deśyate).

    Không đạt đến sự thật tuyệt đối, thì Niết bàn cũng không thể được đạt đến. (MMK 24.10).

    35. Làm lắng xuống tất cả các sự thủ đắc (upalambha= thu hoạch), và làm yên lắng tất cả các hình thái tượng trưng (prapañca). Đức Phật không ở một nơi nào diễn thuyết bất kỳ giáo Pháp cho bất cứ ai. (MMK 25-24)

    36. Và bởi vì tất cả mọi sự tồn tại đều là Tính Không.

    Cho nên, đối với ai và đối với những cái gì mà lại có sự dẫn đến quan điểm về sự hiện hữu thường tồn ở trước v.v…? (MMK 27.29).

    37. Con kính đảnh lễ đức Gautama, ngài đã giữ vững sự từ bi toàn vẹn.

    Vị mà đã công bố giáo pháp hiện thực để loại trừ tất cả các nhận thức chủ quan và sai lầm. (MMK 27.30).

    38.  Đấng Chiến Thắng (jina) dạy tính Không cốt yếu để từ bỏ nhận thức sai lầm,

    Những ai có quan điểm sai lầm đối với tánh Không, thì sự giảng dạy đó sẽ không có tác dụng. (MMK 13.8).

    39.  Bất cứ cái gì bám vào ngôn ngữ bị từ chối, bởi vì nó bị từ chối bởi kinh nghiệm của Tâm,

    Bản chất không sanh và không diệt của các Pháp có thể so sánh được với Niết-bàn. (MMK 18.7).

    Source: TVHS

    Read more »
  • Vô Sắc Tướng & Năng Lượng Tối Của Vũ Trụ, Và 18 Căn Trần Thức Của Phật

    VÔ SẮC TƯỚNG & NĂNG LƯỢNG TỐI CỦA VŨ TRỤ, VÀ
    18 CĂN TRẦN THỨC CỦA PHẬT GIÁO
    Dark Matter & Dark Energy and Buddhism’s 18 Spheres
    * Lê Huy Trứ 
    2/25/2016
     
    Vừa mới đây, những khoa học gia đã xác nhận rằng những vật hiện hữu được trong vũ trụ chỉ có chừng 5 phần trăm trong vũ trụ.  Phần còn lại 23% là chất tối (dark matter) và 72% là năng lượng tối (dark energy) không trực tiếp thấy được bằng nhục nhãn. 

    Recently, scientists confirmed that the observable ordinary matters in the Universe are made up only 5% of the Universe.  The rest of the Universe are filled with 23% dark matter and 72% dark energy, which cannot be directly observed.  While dark matter permeates every galaxy in the Universe, dark energy is like the powerful gravitational waves ‘pulling’ the expansion of spaces between the galaxies.  However, both dark matter and dark energy are still the biggest mysteries in a Universe.

    Nói theo ngôn ngữ Bát Nhã của Phật Giáo, sắc tất thị 95% không; không tất thị 95% vô sắc tướng.  Trong đó, 23% là vô minh tạng (dark matter) và 72% là năng lượng tối (dark energy.)  Vũ trụ tối (dark universe) ‘đầy cái Không’ quang minh tạng và Không tam hỏa chân muội (emptiness of visible light and known energy.)  Dĩ nhiên, trong Vũ trụ tối đó không bao giờ có ngũ uẩn để mà chiếu kiến mà giai không đừng nói chi đến lục căn, lục trần và lục thức.
     
    I would like to use the concept of Buddhism Heart Sutra to express my thoughts:  Form is 95% emptiness in a dark universe; emptiness is 95% of form where 23% is full of dark matters and 72% is full of dark energy but 5% emptiness of observable forms and known energy.  Where observable side is 95% emptiness of dark matters including dark energy and 5% is full of observable forms and known energy.  Of course, in that dark universe, there is neither 5 aggregates nor 18 spheres existed for us to discuss the ‘existence of their emptiness.’
     
    ‘Nature & Consciousness, Architects of the Universe’ tóm lược những điểm chính của ‘vô tướng sắc’ và ‘chân lực tối’ này như sau:
     
    The ‘Nature & Consciousness, Architects of the Universe’ summarized the following foremost facts about dark matter and dark energy:
     
    ·         Dark matter interacts with gravitational waves
    o       Vô sắc tương tác với sóng nhân duyên và lý nhân quả
    ·         Dark matter does not interact or colliding with observable matters
    o       Vô sắc không tương tác hoặc va chạm với sắc (forms.)  Sắc là sắc, không là không !
    ·         Dark matter does not emit light or absorb light
    o       Vô sắc không phản chiếu ánh sáng hoặc hấp thụ quang minh.  Nhưng vô tướng sắc không phải là vô minh; vô sắc tướng là ‘anh minh.’
    ·         Dark matter permeates the galaxies where billion of them pass through us every second
    o       Vô lượng, vô tướng, vô sắc này nó đi xuyên qua vật chất ngũ uẫn giai không (cấu tạo từ 95% emptiness, lỗ hổng chân như) trong từng sátna. 
    ·         Dark energy is repulsive
    o       Năng lượng tối bất khả tư nghì.
    ·         Dark energy does not come from dark matter as it is repulsive with dark matter (it is believe that dark matter would have ‘pulled’ the galaxies together than pushing them apart).
    o       Năng lượng tối không phải từ vô sắc tướng và như nó xô đẩy với vô sắc.  Thực tại được hiểu là vô sắc tướng ‘kéo’ những giải thiên hà lại với nhau thay vì đẩy ra.  Nghiệp hấp dẫn ‘nghiệp’ và tùy theo nhân duyên mà hợp tan!  Chữ ‘kéo’ (pull) này được dùng rất tuyệt diệu bởi kiến thức của khoa học gia và chỉ có người có chút trí tuệ Phật Đà mới hiểu được chữ ‘kéo’ (pull) này thay vì ‘thu hút’ hay hấp dẫn (attract.) 
     
    Có người tin vô sắc (dark matter) and chân lực vô hình (dark ernergy) có thể là lòng Bồ Đề hay Phật Tâm.  Theo tôi đoán, Bồ Đề Tâm có thể có trước ngũ uẩn và nó nguồn gốc cấu tạo ra toàn thể vũ trụ, sáng cũng như tối.
     
    People believed the dark matter and dark energy could be the consciousness particles or consciousness energy.  But consciousness energy probably precedes consciousness particles as consciousness energy is the source of all creation in a universe.
     
    Lòng Bồ Đề hay tâm thức tạo nên, kiểm soát, và thao túng sắc, vật chất hiện hữu.  Những sum la vạn tượng này tương ứng và tương tác lẩn nhau.  Từ nhân duyên, nghiệp quả từ vô lượng mà đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu để tạo ra hàng hà sa số thiên hà, tinh tú, thái dương hệ, trái đất, thảo mộc, chúng sinh cùng nhân sinh.   Những quá trình tiến hóa cấu tạo này đi từ vy mô đến vỹ mô của vật chất và có thể tưởng tượng như là công trình điêu khắc của Phật ngàn tay, kéo khâu, đan lưới đế châu của vũ trụ.
     
    Consciousness energy creates, controls, and manipulates consciousness particles for such creation.  These consciousness particles are interconnected to or intertwined with each other.  At the beginning of the Universe, some of these consciousness particles are used to create quarks, electrons, and photons...   Later they are formed into protons and neutrons.  Subsequently, the planets, stars, galaxies, solar system including earth and the consciousness particles are formed as well as the sentient beings including human beings.
     
    The remaining consciousness that do not make any particles create the countless circular/spiral waves – from the smallest size of a quark, to the size of a planet, a star, and a galaxy  –  are similar to or the same as the gravitational waves.  These waves are like electrons orbiting the nucleus of atoms, planets orbiting stars, stars moving around the galaxies.  We can imagine the consciousness energy is like the Buddha with thousand hands and the seas of current consciousness particles as a giant three-dimension web, the circular waves are created by the Buddha’s hands, which permeate into, and pulling and stirring a giant Indra's web (also called Indra's jewels net or Indra's pearls, Sanskrit Indrajāla.)
     
    Vasubandhu Thế Thân Bồ Tát
    Vasubandhu Thế Thân Bồ Tát
    Ngài Thế Thân (Vasubandhu) đã chứng minh nguồn gốc của vũ trụ nguyên từ tâm sinh.  Lý thuyết của Thế Thân định nghĩa về Tâm Thức qua dạng chân lực hấp dẫn tạo ra tất cả vạn vật trong vũ trụ kể luôn những luật quản trị vũ trụ.  Chủ thể của tâm là đối tượng của thức.  Mổi hiện tượng tâm lý được xem như là nội dung hoặc con đường đi tới chân lý.  Cái chủ tâm này, cái ý tưởng của tâm thức hình như tự chứa thực tại, sau này nó đã thường sống hiển hiện trong Phật tánh (Tri Kiến Phật.)
     
    Vasubandhu already proved the birth of the Universe is caused by the consciousness energy.  Vasubandhu’s theory is definite in saying Consciousness, in the form of energy, create very thing in the Universe – including the laws governing them.  Consciousness (the subject) is always consciousness-of (the object.)  Every mental phenomenon refers to a content or direction toward an object. This is the intentionality of consciousness, the idea consciousness somehow contains its content, the latter as it were being always manifesting "in" sub-consciousness.
     
    Phật Giáo cũng còn định nghĩa rất rốt ráo về cấu trúc của 18 giới.  Nơi lục căn là nguồn gốc của vũ trụ và kiến trúc của nó dựa vào căn bản của ngũ uẩn.  Sự sống với các uẩn lôi cuốn và bám trụ bởi lục căn tiếp xúc với lục trần tạo ra lục thức và thành ra 18 cái vô minh giới ‘kéo’ (pull) theo cái khổ não (suffering) của chúng sinh.
     
    The Buddhism has also defined very well the architecture of Eighteen Spheres/Elements (Dhaatu) that bear their own characteristics or intrinsic nature (attano sabhaavam dhaarentiiti dhaatuyo) [Vism. p. 41] where the six Consciousness is the source of all creation in the Universe and the architecture is based on the Five Aggregates.  For life forms with sense-organs, they follow the appendage of architecture, which is the Twelve Spaces and the Eighteen Spheres.  The relationship between the 5 aggregates of human personality (pa~nca-kkhandha // pa~nca-skandha) and 12Spaces (aayatana) as well as 18 Spheres (dhaatu) is epistemologically significant.  While 12 Spaces (aayatana) are located within the category of as 18 Spheres (dhaatu,) the six consciousness/6 sense-organs belonging to both of 12 Spaces (aatayana) and of 18 Spheres (dhaatu,) and 6 fold consciousness (vi~n~naa.naa) of 18 Spheres (dhaatu) can be placed under the category of 5 aggregates of sentient being/human personality (pa~nca-kkhandha // pa~nca-skandha.)  Simply, 6 sense-organs +  6 sense-data/ objects + 6 resultant consciousnesses = 18 elements/spheres)
     
    Trong Phá Mê Khai Ngộ, Chương 26. Lục Căn, Lục Trần, Lục Thức, Lê Sỹ Minh Tùng tóm tắc rất rỏ ràng đầy đủ về ngũ uẩn giai không, “Ngũ uẩn tự nó không có được, mà là do nhân duyên kết thành nên tự nó không có tự tánh hay chủ thể tức là vô ngã. Nhưng một khi mà do nhân duyên kết hợp thì nó làm sao cố định cho được. Trước khi nhân duyên hòa hợp nó chưa có, sau khi nhân duyên ly tán thì nó cũng tiêu tan theo.”
     
    Liên quan giữa sắc tướng, ngũ uẩn, lục căn trần và 18 giới thức
    Relation between Naamaruupa, Khandha, Aayatana and 18 Dhaatu
     
    Naama-Ruupa
    (sắc danh)
    Pañca-skandha (ngũ uẩnzh. wǔyùn 五蘊)
    Dhaatu
    (6 phân tử)
    12 Aayatana
    (căn trần)
    18 Dhaatu
    (18 giới thức)
    Ruupa
    (sắc, form)
    1. Aggregate of form (zh.色; sa., pi. rūpa), Sắc uẩn
    1. earth (thổ, (pa.thavi)
    2. water (Thủy,aapo)
    3. fire (hỏa,tejo)
    4. air (khí,vaayo)
    5. space (không gian, akaasa)
    1. eye (mắt,cakkhu)
    2. ear (tai,sota)
    3. nose (mũi,ghaa.na)
    4. tongue (lưỡi,jivhaa)
    5. body (thân,kaaya)
    7. the visible (thấy, ruupa)
    8. sound (nghe,sadda)
    9. smell (ngữi,gandha)
    10. taste (nếm,rasa)
    11. touch (sờ,pho.t.thabba)
    12. some Pháp,dhamma
    1. mắt (eye, cakkhu)
    2. tai (ear, sota)
    3. mũi (nose, ghaa.na)
    4. lưỡi (tongue, jivhaa)
    5. thân (body, kaaya)
    7. thấy (visible, ruupa)
    8. nghe (sound, sadda)
    9. ngửi (smell, gandha)
    10. nếm (taste, rasa)
    11. sờ (touch,pho.t.thabba)
    12. pháp (some, dhamma
    Naama
    (danh, name)
    5. Aggregate of consciousness
    (zh. 識, sa. vijñāna, pi. viññāṇa), Thức uẩn
     
    along with
    2. aggregate of feeling (vedanaa-kkhandha) Thọ uẩn
    3. aggregate of perception (zh. 想, sa. saṃjñā, pi. saññā), Tưởng uẩn 
    4. aggregate of disposition (zh. 行, sa. saṃskāra, pi. saṅkhāra), Hành uẩn
    6.consciousness (viññāṇa), Tâm thức
    6. mind (tâm trí, mano)
    12. some Pháp,dhamma
    6. thức (mind, mano)
    12. pháp (some, dhamma
    13. thức thấy (visual consciousness, 
    cakkhu-
    viññāṇa)
    14. thức nghe (auditory consciousness, sota-viññāṇa)
    15. thức ngửi (olfactory consciousness, ghaana-viññāṇa)
    16. thức nếm (gustatory consciousness, jivhaa-viññāṇa)
    17. thức xúc (tactile consciousness, kaaya-viññāṇa
    18. tâm thức (mental consciousness, mano-viññāṇa)
     

    Chúng sinh, đặc biệt nhân sinh có cùng cấu tạo lượng tử, tế bào, tính linh giống như vật chất, thiên hà trong vũ trụ.  Tất cả được cấu tạo rất tinh vi từ căn bản của Vũ Trụ Quan với nước (không khí,) thảo mộc, 18 kiến trúc giới trong bộ não của nhân loại, tâm thức nhân tạo trong computer và những ‘tác động lượng tử từ xa’ luôn luôn tương ứng và tương đồng như tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ.  Đặc điểm của liên kết lượng tử (quantum entanglement) là chúng được kết nối bằng một phương thức kỳ lạ mà Albert Einstein gọi là “Spooky action at a distance (tác động ma quái từ xa.)”

    Sentient beings, specially human beings have a same origin not only as the single cell organisms but also have the same origin as particles, atoms, planets, stars, and the galaxies.  There is a very well defined architecture that governs this universal creation process and together formed the basis of a Universe’s Cognitive Process existing in particles (spooky actions as Albert Einsteincalled it,) water, plants, Eighteen Sphere structures in human brain, artificial consciousness in computer, which is created by Consciousness.

    Trong Phá Mê Khai Ngộ, Chương 26. Lục Căn, Lục Trần, Lục Thức, Lê Sỹ Minh Tùng viết: “Tâm [phan duyên, tâm vô minh, THL] thì dựa theo Lục căn để nhận biết Lục trần và phân biệt thành Lục thức mà Ngũ uẩn thì biến chuyển rất nhanh thành thử Tâm của con người cũng phải chạy theo [ví như  Tâm viên , ý mã.] Ý niệm đua nhau sinh khởi trong tâm thức của con người. Ý niệm sau thay thế ý niệm trước vì thế mà vọng tưởng không bao giờ dừng lại. Vọng tưởng còn thì chân tâm biến mất.”  Ngược lại, khi không còn vọng tưởng, kỳ tâm xuất hiện.    Đó là lý do, Đức Phật dạy chúng sinh phải giữ tâm của mình cho được thanh tịnh bằng cách loại bỏ tất cả mọi phiền não. Bởi vì vọng tưởng và phiền não biến tâm của chúng ta thành mê muội, mà vô minh là cội nguồn của tham, sân, si ‘kéo’ (pull) theo đau khổ trầm luân trong luân hồi.

    Consciousness is also expressed in the basis of Hundred Dharmas that has the characteristics of existing in the form of energy, working within spaces, and existing in emptiness.  The Hundred Dharmas or the Universe’s creation process started with a Mind where the Mind are of eight kinds – the Eye, Ear, Nose, Tongue, Body, Mind, Manas, Alaya Consciousness.  However, the main creators are the first six Consciousness and the last two are auxiliary. 

    Tâm cũng được diễn tả trong căn bản của 100 Pháp (Hundred Dharmas) với sắc tướng hiện tượng trong dạng năng lượng, bàng bạt trong không gian,  hiện hữu trong chân như.  ‘Thiên pháp’ (Hundred Dharmas) hay chu trình cấu tạo của vũ trụ bắt đầu từ tâm thức.  Tâm thức gồm có mắt, tai, mũi, lưỡi, trí, mạc-na thức, và a lại da thức.  Tuy nhiên, những cái cấu tạo chính là 6 cái căn đứng trước nhất còn 2 cái thức sau cùng chỉ là phụ thuộc.

    Tất cả do tâm tạo! (Ý Phật nói?) With our thoughts we make the world.  The mind is everything.  What you think, you become.”  Buddha (?) 

    Tâm tạo ra tất cả trong vũ trụ chỉ đúng một nữa.  Có thể, 18 căn trần thức lừa bịp chúng ta bởi cái đo lường không chính xác của chính nó về thế giới hiện tượng và thực tại của nó có thể là ảo, không thực đúng như vậy.  Cho nên, thực tại là không thực tại mà là thực tại ở trong tâm phan.  Thực tại có thể chỉ đơn thuần là cấu trúc của ma trận (matrix) của tâm thức.  Thấy vậy mà không phải như vậy!  Điều có thể xảy ra đó là thực tại của chúng ta thực sự là không gian 2 chiều (X và Y,) không gian 3 chiều (Z,) và 4 chiều (thời gian) chỉ đơn thuần là ảo, trống không, như đã được giải thích rất quái gỡ trong cơ khí lượng tử (quantum mechanics.)

    The thought makes the entire universe is only half truth.  Perhaps, our human six conscious senses are deceiving us by their inaccurate measurements of our world (Samsara,) existence maybe just an illusion, and reality isn't real.  Thus, all of reality exists only in our minds.   Everything we know maybe merely a constructed matrix of our thoughts.  Thing might not appear as we see and think as it is.  One possible implication is that the reality is actually two-dimensional (X and Y,) the three-dimensional space (Z,) and the fourth-dimensional (time) are merely a holography, which would explain some of the wackiness of quantum mechanics. 

    Đáo bỉ ngạn, trở lại bờ bên kia, có nghĩa là bỏ sáng (quang) trở về tối (dark) theo ngôn ngữ quái đản (spooky language) của con người.  Mà bờ tối đó vì không hấp thụ hay phản chiếu quang (ánh sáng) nên có thể không có luôn âm (tiếng động.)  Nếu chúng ta được cấu tạo và tiến hoá (evolution) trong môi trường đen tối đó thì chúng ta sẽ không cần ngũ uẩn và lục căn.  Chúng ta sẽ ‘không mắt, không tai, không mũi, không lưỡi, không thân và không thức’ vì tất cả nhửng giác quan này vô dụng bên bờ bên kia.  Chúng ta sẽ không là con người tầm thường mà có thể là ‘thượng đế?’  Điều này cho thấy Bát Nhã Tâm Kinh đã diễn tả chính xác cái ‘ngũ uẩn giai không,’ cái tánh Không tuyệt diệu bên bờ tối đó mà khoa học đến bây giờ vẫn còn chưa thông nổi ý này. 

    Back to another side, in this case means ‘go to bright side with light’ ‘back to’ the dark side without light with dark energy and dark matters.  Since dark side neither emits light nor absorbs light and probably it produces no noise and if  we are evolved in those environments perhaps we would not need these six sense organs.  We might have no eyes, no ears, no nose, no tongue, no body, may be no mind as expressed beautifully in Buddhism Heart Sutra, which are the five aspects of human existence are empty and six sense organs are non-existence, all things are emptiness.  If that the case then we might not call ourselves as a human being but ‘super-being?

    Tóm lại, cái quan niệm phổ thông từ trước đến nay của tâm tạo ra tất cả vô lượng vật trong vũ trụ chỉ thật sự đúng trong vũ trụ hiện tượng với vật chất hữu hình có thể thấy, nghe, ngữi, nếm, sờ và biết được bởi tập tục từ vô lượng kiếp đầy vô minh của 18 Pháp giới, đó chỉ là 5% của sắc tướng quáng quang âm trong vũ trụ, trong 5% đó đầy ắp ảo sắc tạo bởi ngũ uẩn qua phản chiếu quang tạng ảo ảnh và những tiếng động (âm) ồn ào không thật tại từ tâm phan duyên được đo lường bởi 18 căn trần thức giới của Phật Giáo.  Nó không đại diện cho ‘bờ bên kia’ không có ngũ uẩn, khác với ‘ngũ uẩn hiện hữu nhưng chỉ là giai không’ kiến bởi ‘Quang Âm’ Bồ Tát ở ‘bến bên này.’ Bờ bên kia của chư Phật không có ngũ uẩn như bờ bên này để chiếu kiến giai không.  Bờ bên kia đầy không, vơi sắc; bến bên này đầy sắc, vơi không. Có không, không có!   

    In short, the concept of ‘consciousness creating everything in the Universe’ is only true for an observable universe, which is only 5% observable matters, and full of non-emptiness that formed by five aggregates and consciously measurable by 18 Buddhism’s Spheres.  It does not accountable for another ‘dark side,’ which is subconsciously full emptiness of five aggregates.  The ultimate truth of ‘emptiness of emptiness’ should be resolved by the modified Heart Sutra (The Prajñāpāramitā Sutra) formula “asBodhisattva Avalokitesvara practiced the profound Prajnaparamita,  Bodhisattva Avalokitesvara saw that the ‘universe’ is ‘emptiness of emptiness.’  That is non-dualism!

    Cho nên phải “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm diệu viên giác Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến vũ trụ giai ‘không của không’.”  Khi đó mới ‘như thị viên giác’ (thấy rốt ráo với không tánh, bất nhị, anh minh, sáng suốt tròn đầy) thấu đạt được tâm tướng là tâm không; không tâm là tướng tâm!

    Source: TVHS

    Read more »
  • HÀNH XỬ NHƯ PHẬT

    HÀNH XỬ NHƯ PHẬT

    CHUYỂN THÂN HÈN MỌN RA THÂN ỨNG HÓA

    Điều quan trọng nhất trong mật tông là phải có được một tiền vị, một kinh nghiệm thực thụ về những gì có ý nghĩa đối với ta. Dù chỉ có một thỏi sô cô la nhỏ bé, nhưng được nếm nó là ta thấy khoái rồi. Bởi thế những người nào nắm đựơc một cái gì thật minh bạch trong tâm trí rồi ngay khi hiểu được, liền đưa nó vào tim, thì đấy là những người thực sự hành trì mật tông. Đấy là những người có được thỏi sô cô la. Tâm nhị nguyên thông thường của ta, cái mà người ta thường gọi là tâm thực tiễn, luôn luôn diễn dịch rằng có một cái gì đó chưa được toàn hảo lắm nơi tôi và nơi hoàn cảnh xung quanh. Đó là một tâm lý luôn luôn chỉ trích, tìm lỗi. Đó là triệu chứng của tâm nhị nguyên: luôn luôn có một cái gì không ổn. Tâm nhị nguyên của chúng ta hoặc thổi phồng quá trớn, hoặc đánh giá quá thấp những gì hiện hữu. Một cái tâm bất mãn, bất thường như thế không bao giờ theo trung đạo. Dù cố ý hay vô tình, tâm lý ấy luôn luôn nghĩ: "Bản chất tôi xấu xa. Tôi sinh ra đã xấu, hiện tại cũng xấu, tôi sẽ chết mang theo những tội lỗi, và cuối cùng xuống địa ngục." Dù có tôn giáo hay vô thần, khi mất liên lạc với bản tâm là ta vẫn còn bị ảnh hưởng của những quan niệm chủ bại sai lầm như thế. Nếu muốn giải thoát mọi bệnh tật về thân tâm, thì điều cực kỳ quan trọng là phải đánh tan mọi khái niệm sai lầm tự bỉ ấy.

    Vấn đề của chúng ta ở đâu ? Chính là ở chỗ ta cảm thấy "Tôi là người tệ nhất trên đời, xấu xa, tham sân si đầy dẫy, ôi tôi thật là tệ." Cái kiểu suy tư như vậy thật hoàn toàn tiêu cực. Chính đây là điều ta cần thanh lọc.

    Mật tông dạy rằng con người có một đức tính thần tiên. Trọng tâm của mỗi người, bản chất tinh túy của họ, là một cái gì thuần tịnh, thiêng liêng. Muốn nhận ra nó, và hội nhập sự thực chứng ấy vào đời sống của ta chứ không chỉ là hiểu biết bằng tri thức, thì điều cần thiết là ta phải hóa thân làm một thiên thần.

    Biến mình thành một thiên thần không phải là chuyện liên can đến văn hóa hay tín ngưỡng nào đặc biệt. Bạn đã tự biến mình thành cái gì rồi. Khi bạn biến ra hình ảnh thảm hại về chính mình, thì bạn không cho đấy là do một nền văn hóa đặc biệt nào cả, bạn chỉ có tự biến ra. Bởi vậy hãy tốp thói quen ngu si ấy; mà đào luyện một niềm tự hào mãnh liệt về tính thần tiên và tự biến mình thành một thiên thần. Hãy khởi sự sống đúng theo tiềm năng mãnh liệt của bạn.

    Phương pháp tốt nhất để tập luyện điều này là thiền quán về ba thân Phật. Những bậc thầy mật tông vĩ đại trong quá khứ như Tsongkhapa thường nhấn mạnh rằng, không có pháp tu nào thiết yếu hơn thế.

    HÒA TAN

    Trong mật điển, pháp thiền quán ba thân - thuộc pháp quán các vị phật thiền - có nhiều chi tiết, nhưng ở đây ta có thể làm cách vắn tắt như sau cũng đủ. Khởi đầu là nhớ lại ba pháp quy y, phát tâm bồ đề mong giác ngộ để lợi lạc hữu tình. Rồi làm phép Đạo Sư Du Già, căn bản của mật tông. Quán bậc thầy mật tông ở trước mặt, xem ngài như hiện thân của mọi đức tính giác ngộ mà ta mong thực chứng trong tâm ta. Tưởng tượng bậc thầy ngồi trên đỉnh đầu tan thành luồng ánh sáng đi xuống tim ta. Khi bậc thầy đi xuống như thế, ta quán tưởng mình đang trải qua những ảo tưởng của sự chết đưa đến sinh khởi Ánh Sáng Thuần Tịnh của bản tâm. Bằng cách ấy chúng ta quán sự hợp nhất giữa tuệ lạc của bậc thầy với tâm thức vi tế nhất của ta. Khi cố nhớ lại những pháp gia trì thầy đã ban, trí tuệ và từ bi của thầy đối với ta, ta nên tưởng tượng sự hợp nhất ấy là vô cùng phúc lạc. Ta càng có khả năng thể nghiệm lạc thọ bao nhiêu, tiến trình chuyển hóa càng dễ bấy nhiêu.

    Kinh nghiệm phúc lạc vi tế của sự hợp nhất này vượt ngoài mọi khái niệm đối đãi thường tình. Khi tất cả mọi tướng phàm tình đã tan vào bầu hư không trống rỗng của trí bất nhị và đại lạc đồng khởi, chúng ta tập trung vào sự tan hòa ấy một cách nhất tâm không tán loạn. Hãy nghĩ "đây là pháp thân giác ngộ, và đây mới thực là tôi." Nhờ tự đồng hóa hoàn toàn với pháp thân, ta chuyển hóa được kinh nghiệm chết thông thường thành con đường đưa đến giác ngộ.

    Khi thiền quán về pháp thân cách ấy, những khái niệm về tự ngã mà ta đã có bấy lâu sẽ từ từ rơi rụng; đây cũng đủ để được xem như một kinh nghiệm về chân không. Không nên nản chí nghĩ "tôi không có thực chứng nào về chân không. Ngay cả danh từ này tôi cũng không hiểu, thì làm sao để quán." Suy nghĩ vậy là một chướng ngại. Chung quy, ta đã có phần nào kinh nghiệm về ánh sáng trong suốt. Chúng ta đã chết nhiều lần trong quá khứ, và theo mật tông thì tiến trình chết tự động đưa đến sự khám phá Ánh sáng trong suốt, tính Toàn vẹn không hai. Không những khi chết, mà khi ngủ và lúc say sưa, ta cũng có được một mùi vị của ánh sáng trong suốt thể hiện cái Toàn vẹn này. Những kinh nghiệm như thế đánh đổ phần nào tự ti mặc cảm của ta. Bởi thế không nên lo lắng bạn chưa hiểu được Tính không một cách sâu xa; hiện tại chỉ cần bạn không vướng bận những khái niệm đối đãi. Hãy buông xả, để cho mọi chấp thủ của bạn tan vào hư không trong suốt.

    Hãy duy trì sự tỉnh giác và xem tâm thức bén nhạy ấy là trí tuệ ôm trọn bầu vũ trụ trong sáng thuần tịnh. Trong không gian khoáng đạt ấy, ta không còn thấy đâu cái "tôi" tự than thân trách phận; nó hoàn toàn không hiện hữu. Hãy để cho tâm an trú trong sự khoáng đạt ấy, thoát mọi rắc rối và vận hành sai lạc, nhận thức nó là kinh nghiệm về pháp thân thực thụ. Đấy là một trạng thái tự nhiên, trong sáng không một mảy tơ tưởng nào, hoàn toàn trống rỗng mọi mâu thuẫn rối ren thuộc bản ngã. Chỉ cần bạn để cho tâm mình an trú vào đó một cách sống động.

    Có lẽ bạn hơi khó chịu khi tôi giải thích về kinh nghiệm Ánh sáng trong suốt này. Có lẽ trong tâm bạn đang cãi "ê thầy Yeshe, nếu ông bảo Không chỉ là hư không, thì ông lầm rồi. Thầy đã đơn giản hóa một vấn đề hết sức phức tạp. Đấy không phải là quan điểm của Long Thụ, đấy không phải là triết học Trung Quán. Chân không không phải là chỉ có việc giả vờ tan thành hư không." Bạn cứ cãi như vậy đi, có thể lôi hết sách triết ra mà cãi và chứng minh rằng tan thành hư không không phải là ý nghĩa mà Chân không muốn diễn đạt. Nhưng đó chỉ là chuyện mất thì giờ.

    Quả thật, trong khi nghiên cứu, chúng ta cần phải có được một cái nhìn đúng về tính không trên phương diện triết lý, để có thể hiểu được chính xác như Long Thụ, cùng tất cả các bậc đại hiền trí và hành giả khác. Nhưng bây giờ trong lúc thiền quán chúng ta không nói đến lý thuyết hay phân tích, mà cốt thực hành. Và để thực hiện kinh nghiệm ánh sáng pháp thân, mọi bậc thầy Ấn Tạng đều bảo hư không là điển hình tốt nhất cho ta hiểu được chân không hay bất nhị.

    Muốn đạt đến kinh nghiệm thực thụ về chân không, ta phải bắt đầu từ một khởi điểm nào đó. Phải có một kinh nghiệm, một ý vị về nó như thế nào, để vượt qua những mâu thuẫn đối đãi do ngã chấp phát sinh. Đây là điểm chính. Chúng ta phải buông xả phần nào mọi khái niệm thô phù, cụ thể và hạn cuộc đã giam giữ chúng ta trong tri kiến bất toàn về chính mình và về mọi sự.

    Từ quan điểm triết học, người ta nói rằng trong chân không, không có sắc thanh mùi vị .v.v. Một cái nhìn như thế có thể diễn thành kinh nghiệm thực thụ khi ta để cho mọi sự tan vào không gian bằng cách thể nhập tiến trình chết. Trong lúc hòa tan ấy, tâm ta không có cách nào tiếp xúc với thế giới giác quan quen thuộc. Trong không gian trong suốt của chân không, không có màu mùi cảm giác..., mọi rắc rối nhị nguyên đều tan biến, và kết quả là trạng thái tự nhiên của tâm ta có thể tỏa chiếu, bao trùm toàn thể thế giới thực tại. Hãy ở lại càng lâu càng tốt trong trạng thái khoáng đạt ấy, và hãy cảm thấy bạn đã đạt đến pháp thân thực thụ, trí tuệ vô ngại của toàn giác.

    TÁI XUẤT GIANG HỒ

    Bây giờ, làm sao để di chuyển sang kinh nghiệm báo thân. Trong khi lơ lửng trong không gian của pháp thân, ta buông xả tất cả cho đến khi không còn gì quấy rối tâm ta. Không một vật gì. Sau một lúc, những trò rối của nhị nguyên lại sẽ khởi sự xuất đầu lộ diện, lôi kéo sự chú ý của ta. Đây là lúc nên chuyển từ kinh nghiệm pháp thân đến kinh nghiệm báo thân. Chỉ hành giả biết được lúc nào nên tái xuất, không ai khác có thể nói được cái gì xảy ra trong tâm họ.

    Khi sự rung động của đối đãi khởi lên trong tâm, hãy nhớ lại nguyện đại bi làm lợi ích hữu tình, và hãy làm quyết định mạnh mẽ sẽ xuất hiện dưới một hình dạng có thể tương giao với kẻ khác. Khi ấy trong bầu không gian bất nhị, trong ánh sáng trong suốt của chân không, một cái gì khởi sự hiện lên. Nó giống như một gợn mây nhỏ chợt hiện giữa bầu trời bao la trong suốt. Hình dạng và màu sắc của nó tùy thuộc loại thiền quán bạn đang tu tập. Trong mật tông, đó là chủng tự biểu trưng vị thần chính yếu. Nó có thể là một hạt giống, hay một hình dạng nào khác. Nhưng dù là cái gì, cũng nên hiểu đó là biểu hiện vi tế của chính tâm ta. Nó không phải là cái gì ta ngắm nhìn từ bên ngoài, mà ta phải hoàn toàn hợp nhất với nó. Nó chính là hình dạng tâm ta mới khởi lên.

    Cũng như ta đã đồng nhất ánh sáng trong suốt trong không gian bao la với kinh nghiệm pháp thân, bây giờ ta hãy xem hình dạng vi tế này như báo thân thực thụ. Nó tương tự cái thân vô sắc ta có trong trung ấm phàm tình giữa chết và tái sinh. Ta cũng phải cảm nghiệm nó là hợp nhất bất khả phân giữa đại lạc và trí bất nhị, bây giờ được đồng nhất với báo thân của một vị Phật. Hãy nghĩ "đây thực sự là báo thân tôi." Hãy duy trì hình ảnh rõ rệt của chủng tự ấy và niềm tự hào thần tiên của báo thân trong một lúc, để chuyển hóa kinh nghiệm trung ấm phàm tình thành con đường đạt báo thân giác ngộ.

    Khi đã sẵn sàng, hãy nhớ lại tâm nguyện bồ đề lợi tha, rồi mạnh mẽ quyết định sẽ xuất hiện dưới một hình dạng có thể liên lạc với nhiều hữu tình hơn nữa. Với động lực đại bi này, chủng tự thình lình hóa thành thân thể như ráng cầu vồng của chính vị thiên thần ta quán tưởng. Hãy hiểu đây là ứng thân thực thụ của toàn giác, thay vì cái thân vật lý thô phù của tái sinh phàm tình. Ứng thân ấy cũng có bản chất của lạc tuệ đồng thời sinh khởi. Một lần nữa, hãy tự đồng hóa với hình dạng ấy bằng cách khởi lên ý nghĩ: "Đây thực sự là ứng thân tôi." Bằng cách ấy, sự tái sinh phàm tục sẽ được đưa vào đường tu, như ứng hóa thân của một vị Phật.

    Khi tu quán chư thần, ta phải thực sự cảm thấy mình là hóa thân của vị thần ấy. Đừng nghĩ mình giả vờ, mà phải tin chắc. Cũng như diễn viên vẫn còn "nhập vai" khi màn kịch đã chấm dứt, bạn sẽ ngạc nhiên thấy mình thực sự biến thành vị thần. Niềm tự hào thiên thần này là điều thiết yếu; phải ý thức mạnh mẽ mình thực sự là vị thần. Với phương pháp này, sự chuyển hóa mật tông sẽ xảy đến một cách tự nhiên và hết sức mãnh liệt. Những người tưởng pháp quán mật tông chỉ là thần tiên vờ vĩnh, thực hoàn toàn sai lạc.

    BUÔNG XẢ

    Trong lúc thiền quán, bạn thường cố duy trì trạng thái bất nhị khoáng đạt và tỉnh thức. Tuy thế bạn vẫn rất dễ bị tán loạn vì những vọng tưởng sinh khởi. Khi điều này xảy đến, đừng chống lại vọng tưởng, mà tốt nhất hãy khởi tưởng mạnh mẽ mình là vị thần bảo hộ [ví dụ Quan Âm] và phát tâm từ bi quảng đại. Hãy ở trong bầu không gian của ý thức sâu xa ấy, và cứ để mình là Quan Âm.

    Nếu vẫn bị tán loạn - chẳng hạn, bạn nghĩ đến chuyện ăn bánh bao - thì hãy đừng quá phí sức chống cự vọng tưởng ấy. Chẳng hạn, đừng có dây dưa vào một cuộc độc thoại nội tâm, kiểu như "Ồ tôi thèm ăn bánh bao quá. Ai xui khiến tôi phải đến ngồi thiền thế này, trong khi giờ này tôi có thế thong dong bát phố?" Thay vì lải nhải như vậy, hãy khởi sự đọc thần chú của Quan Âm "Om tara, tuttare, ture svaha" cho đến khi tâm trở lại an tĩnh. Như thế còn tốt hơn là để cho tâm bạn bị lôi kéo bởi câu chú phàm tục "bánh bao, bánh bao, bánh bao."

    Một chướng ngại lớn nữa của thiền định là chờ đợi quá nhiều, hy vọng quá nhiều. Thái độ mê tín này không làm ta thỏa mãn với những kinh nghiệm tốt của mình; nó luôn bắt ta so sánh kinh nghiệm ấy với một lý tưởng nào đó chỉ có trong tưởng tượng. Chúng ta lấy làm bất an với ý nghĩ : "Theo giáo lý, đáng lẽ đến giai đoạn này tôi phải có kinh nghiệm đại lạc, thế mà tôi có cảm thấy gì đâu. Chắc chắn tôi đã thất bại." Vì mong mỏi có được kinh nghiệm, nên kinh nghiệm mà ta mong đợi không bao giờ đến. Điều này dễ hiểu: làm sao lạc có thể phát sinh trong một tâm thức quá căng thẳng lo âu ?

    Giải pháp duy nhất là hãy buông xả. Hãy nhận ra hy vọng là chướng ngại, và buông xả khi nó vừa phát sinh. Nói cách khác, ta nên tu hành một cách thong dong thư thái. Đôi khi ta để quá nhiều năng lực vào việc tu tập, tự kỷ luật mình quá khắc khe, tưởng thế là sẽ mau chứng. Nhưng nỗ lực quá căng thường đưa đến hiệu quả ngược lại, đã không giúp ích mà còn cản trở bước tiến của ta.

    Như những người mới tập lái xe chưa biết thư dãn khi ngồi sau bánh lái. Vì quá chăm chú bận rộn điều chỉnh tốc độ, tay lái v.v., họ làm cho chiếc xe nhảy chồm lên, khiến người ngồi xe không được thoải mái. Lái xe trở thành một việc vất vả khó nhọc chứ không còn là một thú vui. Ngược lại, những người lái xe lão luyện thì rất thong dong tự tại. Mặc dù vẫn ý thức mọi sự xung quanh, họ biết buông xả, để cho chiếc xe tự lái. Kết quả là xe chạy rất êm, khiến ta có cảm giác như nó đang sung sướng bay giữa hư không thay vì nện binh binh trên mặt đường. Tương tự, muốn kinh nghiệm thiền lạc, ta phải buông xả những mong đợi, và giảm bớt những nổ lực hữu thức quá căng.

    NIỀM TỰ HÀO THẦN TIÊN VÀ SỰ XUẤT HIỆN TRONG SÁNG

    Giai đoạn "sinh khởi" trong việc tu tập niềm tự hào thần tiên là điều hết sức quan trọng. Khuynh hướng thông thường của ta là ưa bất mãn và chỉ trích ba nghiệp thân lời ý của mình. "Thân thể tôi thật xấu xí; giọng nói tôi không êm tai chút nào, tâm tôi thường rối ren." Chúng ta bị vướng vào thói quen bệnh hoạn ấy -ưa chỉ trích chính mình một cách vô lối- đến nỗi chúng ta chê bai những người khác nữa. Trên quan điểm mật tông, thói này cực kỳ tai hại.

    Phương pháp chữa trị là hãy đào luyện một niềm tự hào thần tiên, cái cảm giác mãnh liệt chẳng hạn như khi thể nhập kinh nghiệm ứng thân, rằng bạn thực sự là hóa thân của một vị Phật toàn giác, rằng tâm bạn hoàn toàn thoát khỏi mọi mê tín, mọi giới hạn. Nếu bạn tiếp tục nghĩ mình là một kẻ sân si, thì bạn sẽ hóa thành người sân si thực, chắc chắn không thể thành một thần tiên đầy phúc lạc. Bạn có thể chấm dứt lối suy nghĩ tai hại về chính mình như thế, để tránh những hậu quả tiêu cực, chủ bại - bằng cách đồng nhất "căn bản thức" của mình với những đức tính từ bi trí tuệ của vị thần mà bạn quán tưởng. Bằng cách ấy, bạn mở lòng ra đón nhận những nguồn cảm hứng bao la có thể chuyển hóa toàn thể cuộc đời mình. Càng tập trung mãnh liệt vào niềm tự hào thần tiên, bạn càng kinh nghiệm một cách sâu xa sự giải thoát mọi hạn cuộc và bất mãn.

    Sự thực hành mật tông Tối thượng du già có 3 hương vị đặc biệt. Một là thấy mình cùng mọi người đều có vẻ thần tiên cốt cách. Hai là tâm của hành giả không bao giờ rời trí bất nhị. Ba là mọi kinh nghiệm đều đem lại hỉ lạc lớn lao.

    Như đã nói, đừng có "giả vờ" làm thần tiên, chẳng hạn Quan Âm. Bạn phải cảm thấy tận tâm khảm sâu xa rằng mình là Quan âm, cả hai là một thực thể bất khả phân. Càng đào luyện tính nhất thể này, bạn càng có kinh nghiệm về chuyển hóa một cách mãnh liệt. Điều này hoàn toàn tự nhiên.

    Bạn cũng cần luyện tập để thấy mọi tướng đều huyễn hóa, không phải là một cái gì tách rời với tự tâm. Nói cách khác, phải nhận thức mọi tướng đều khởi từ chân không, đều có bản chất của chân không, bất nhị. Cuối cùng, cảm nghiệm của bạn về tướng chân không, huyễn hóa ấy phải là một kinh nghiệm vô cùng lạc thú. Điều này được đạt đến trong giai đoạn thành tựu của pháp du già tối thượng, bằng cách đưa chú ý vào nội tâm sao cho bạn cảm giác một cách mãnh liệt năng lượng kundalini đầy phúc lạc lan tỏa khắp thần kinh hệ của mình. Điều này giúp bạn hòa tan mọi kinh nghiệm vào năng lượng đại lạc.

    Để giúp tiến trình chuyển hóa, một vài tập luyện cơ thể như hatha-yogas, đóng một vai trò hết sức quan trọng trong khi tu tập giai đoạn "thành tựu". Nhưng đấy không chỉ là những luyện tập để cải thiện thế ngồi hay sức khỏe của bạn. Mục đích tối hậu của chúng là làm tăng năng lượng kundalini đại lạc. Năng lượng này thấm khắp hệ thần kinh vi tế của ta, nhưng phiền một nỗi là ta không nhận ra nó. Nhờ tập luyện hatha - yogas, ta có thể liên lạc với năng lượng ấy, tăng cường lạc, và biết cách thông thương với nó để dẫn nó đi bất cứ đâu theo ý muốn. Đây không phải vì mục đích đạt được lạc phàm tình, mà cốt để kiểm soát những tầng lớp vi tế nhất của thân tâm ta.

    Tuy nhiên khi làm những tập luyện ấy, điều cốt yếu là duy trì chính niệm về mình như một thần tiên. Phải gạt qua mọi ý tưởng hạn cuộc tự thương thân trách phận, thì những tập luyện này mới thực sự công hiệu. Nhờ tập luyện đúng cách sẽ đến một giai đoạn dù bất cứ làm gì ta cũng cảm thấy một nguồn hỉ lạc lớn lao. Khi thân khởi sự cảm thấy mềm mại nhẹ nhàng, thì những năng lượng vật lý trước đây vốn là gốc khổ, khởi sự phát sinh những cảm giác đại lạc. Sự chuyển hóa mật tông như vậy không chỉ là vấn đề tưởng tượng, mà cả thể chất ta cũng biến đổi lạ lùng.

    NHÂN CÁCH TRONG MẬT TÔNG

    Nhiều người nói điều quan trọng không phải là thân thể, mà là thiền quán ở nội tâm. Nhưng nói thế là sai. Theo mật tông, ta không thể nói tâm quan trọng hơn hay thân quan trọng hơn. Cả hai đều quan trọng ngang nhau. Trong pháp hành mật tông, thân thể được xem như một mảnh đất có nhiều mỏ quý. Mặc dù đau khổ, cái thân này của chúng ta vẫn chứa tài nguyên vô giá, đó là vàng kundalini, dầu hỏa kundalini.

    Tất cả chúng ta ai cũng đã từng có lần cảm thọ thân lạc lớn lao. Một đôi khi, đang ngồi thư dãn ta bỗng có một cảm giác phúc lạc nồng nàn lan khắp người. Kinh nghiệm này rất thường, không phải là một thực chứng cao siêu gì lắm. Nhưng nó cũng cho ta dấu hiệu về kho tàng lớn lao của năng lượng phúc lạc chứa trong thân ta ngay trong giờ phút hiện tại. Mục đích của mọi pháp du già, mọi luyện tập và thiền quán của tối thượng du già, chỉ là để khơi dậy, kiểm soát và xử dụng tài nguyên năng lượng đại lạc ấy để đạt đến toàn giác. Bởi vì, miễn sao đầu óc bạn vẫn tỉnh táo và có thể duy trì chính niệm, thì bạn có thưởng thức bao nhiêu lạc thú cũng không sao. Bạn có thể gọi lạc ấy là lạc sinh tử, lạc thế gian, hay gì gì cũng được, nó vẫn có thể đưa đến giải thoát.

    Tinh túy của mật tông là xử lý lạc thú một cách thiện xảo. Người có đủ tư cách để thực hành mật tông là một người "chịu chơi", với người ấy việc xử lý lạc thú trở thành một phương tiện giúp họ giải thoát. Đây là nhân cách mật tông. Nếu một người chỉ biết cách chịu đựng đau khổ, thì mật tông chẳng giúp ích gì cho họ được. Cũng giống như một lò nguyên tử không có nhiên liệu, một con người như thế sẽ không có tài nguyên để xử dụng cho những chuyển hóa cần thiết.

    Tuy vậy, tài nguyên lạc thú đã sẵn có trong thân thể con người chúng ta. Đây là lý do chính yếu tại sao ta xem thân người là vô cùng quý báu. Điều ta cần có, là một phương pháp thiện xảo để khơi dậy và xử dụng tài nguyên ấy, ngõ hầu đem lại hạnh phúc toàn vẹn không những cho chính ta, mà cho tất cả mọi người. Muốn thế, ta phải đoạn trừ thói quen nhìn những kinh nghiệm trong đời mình bằng một cái tâm khổ sở, với những dự phóng đau buồn. Ta phải công nhận rằng chính ta đã tạo ra mọi rắc rối. Không nên đổ thừa cho xã hội, cho cha mẹ hay bạn bè; không nên trách cứ bất kỳ ai. Những rắc rối của ta do chính tâm ta tự tạo. Nhưng cũng như ta đã sáng tạo tất cả rắc rối cho chính mình, ta cũng là kẻ sáng tạo ra giải thoát cho chính mình, và mọi thứ cần thiết để đạt đến giải thoát lạc này vốn đã được chứa đựng trong thân tâm ta hiện tại.

    HÒA NHẬP TUỆ VÀ LẠC

    Mục đích của sự hóa sinh thành một vị thần tiên nhờ pháp thiền quán ba thân Phật, cốt là để đánh tan ngã chấp ngột ngạt của ta. Chính quan niệm hẹp hòi này đã cản trở ta không kinh nghiệm được sự bùng vỡ của năng lượng phúc lạc tiềm tàng trong hệ thần kinh mình để nhờ đấy thực chứng tiềm năng giác ngộ.

    Trí tuệ về chân không là đầy hỉ lạc. Điều vô cùng quan trọng là hai yếu tố này -tuệ giác đi sâu vào thực chất mọi sự, và cảm giác đại lạc- phải được hợp nhất trong một kinh nghiệm. Ta có thể thấy nhiều người trẻ rất thông minh, nhưng họ vẫn cảm thọ được rất ít niềm vui trong cuộc sống, hoặc không có niềm vui nào cả. Trí thông minh chẳng những không làm họ sung sướng mà nhiều người trong số ấy lại hoàn toàn bị rối loạn. Họ có thể sáng chế đủ loại công trình như những trò chơi điện tử phức tạp, nhưng vì thiếu phương pháp để hòa nhập tri thức và cảm xúc của mình, nên họ vẫn là những người trí thức khô cằn, đầy bất mãn.

    Ngược lại có nhiều người có khả năng thực tiễn để được hạnh phúc, nhưng họ lại không có trí thông minh, không có sự tỉnh giác sắc bén để đi sâu vào một cái gì. Mặc dù hài lòng với cuộc sống, tâm thức họ vẫn cùn nhụt.

    Mật tông cố đào luyện trí tuệ lớn lao, đưa trí thông minh vào kinh nghiệm thực tiễn bằng cách đồng nhất nó với sự tỉnh táo đầy phúc lạc. Bằng cách đó ta có thể làm cho đời mình sung mãn, kiện toàn tiềm năng hạnh phúc mà vẫn tẩy trừ được mọi vấn đề rắc rối thường đi đôi với sự theo đuổi khoái lạc. Vì trên thế giới này, lạc thú thường đẻ ra vấn đề. Nhiều người cho rằng những nỗi khổ vật lý như đói và bệnh không thực sự là vấn đề trầm trọng lắm. Nhưng làm sao để hưởng khoái lạc mà không trở thành điên loạn hay đồi trụy, đấy mới là một vấn đề lớn chưa có giải pháp. Kinh nghiệm hòa nhập của mật tông cống hiến giải pháp ấy.

    Ta đã nhiều lần nói rằng theo mật tông, vấn đề căn bản của con người là khi có lạc thú, nội tâm ta thường đâm ra ngu độn, tối tăm. Điều này không có nghĩa rằng ta không nên hưởng lạc. Ta nên hưởng lạc, nhưng cần phải đề phòng đi quá trớn trong khi hưởng lạc. Ta phải giữ cho khỏi bị ảnh hưởng của vọng tưởng ngu si. Bởi thế lúc này ta đang học làm cách nào để có kinh nghiệm đại lạc, mà vẫn duy trì trạng thái sáng suốt, có kiểm soát. Ta đang học cách làm thế nào kinh nghiệm đại lạc có thể dẫn khởi tuệ giác sâu xa trong sáng.

    Thông thường chúng ta có thói muốn vơ về cho mình. Ngay cả khi thiền quán được thành công, cảm thọ được năng lượng kundalini đầy hỉ lạc đang lên, ta liền có một khuynh hướng mãnh liệt muốn vồ chụp lấy nó, nghĩ : "Đây là kinh nghiệm của tôi, tôi đã chứng." Đây là thói quen ta cần từ bỏ. Ta nên tập để cho những kinh nghiệm lạc nó xảy đến mà đừng bám víu xem là của tôi. Ta có thể làm được điều này bằng cách đồng nhất tâm với chân không, bất nhị. Khi ấy mỗi lúc lạc khởi lên, thì như thể là nó được kinh nghiệm ở đâu đó ngoài hư không. Thực khó mà diễn đạt điều này, nên tôi hy vọng quý vị sẽ hiểu những gì tôi muốn nói. Ta phải vượt ngoài thói quen chiếm hữu thông thường của mình, thói liên kết mọi sự vào ý thức hạn hẹp về bản ngã.

    Có lẽ tôi có thể giải thích điều này một cách sáng suốt hơn chút đỉnh. Hãy tưởng tượng trước mặt bạn là một người mà bạn cho là vô cùng hấp dẫn. Chỉ nhìn người ấy thôi cũng đủ khơi dậy một năng lượng lạc lớn nơi bạn. Bạn có thể muốn đưa tay ra mà ôm lấy người ấy. Bây giờ, hãy tưởng tượng người ấy thình lình tan thành ánh sáng cầu vồng, rạng rỡ và trong suốt. Tự nhiên tất cả cảm giác trĩu nặng của bạn về dục vọng chiếm hữu cũng tiêu tan. Thay vào đó, một cái gì nhẹ nhàng hơn, bồng bềnh hơn, sinh khởi. Bạn vẫn còn một vài tương quan với đối tượng đẹp đẽ ấy, nhưng tương quan ấy đã đổi thay. Bạn đã buông xả thái độ bám víu, và bây giờ kinh nghiệm một cái gì khoáng đạt hơn, bao la hơn. Đó là một kinh nghiệm hết sức nhẹ nhàng, phúc lạc mà vẫn hoàn toàn tỉnh thức, cái kinh nghiệm mà tôi muốn nói. Đó là những gì chúng ta cố đào luyện.

    Read more »
RSS